Bản án 56/2021/HSST ngày 13/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 56/2021/HSST NGÀY 13/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2021/TLST-HS ngày 19/7/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2021/HSST-QĐ ngày 31/8/2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Quang H; Tên gọi khác: Không; Giói tính: Nam Sinh năm: 1971 tại Hà Nam. NKTT và chỗ ở: Thôn 9, xã Lộc Nam, Huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12 Con ông: Phạm Văn Nh (chết); Con bà Phạm Thị Đ (chết). Gia đình có 08 anh chị em, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình. Vợ: Đăng Thị Thắm, sinh năm 1975 (đã ly hôn), hiện sống tại xã Lộc Nam, Huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2002, hiện sống cùng mẹ.

Tiền án: Tại bản án số 13/2006/HSST ngày 13/3/2006 của Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt Phạm Quang H 01 năm tù về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo chưa đóng án phí và thu lợi bất chính nên chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không Nhân thân: Tại bản án số 37/HSST ngày 28/11/1996 cúa Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm xử phạt Phạm Quang H 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội gây rối trật tự công cộng, theo khoản 1 Điều 198 Bộ luật hình sụ năm 1985.

Tại bản án số 27/HSST ngày 25/11/1999 của Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm xử phạt Phạm Quang H 15 tháng tù về tội cưỡng đoạt tài sản cúa công dân, theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1985.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/5/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giũ Công an Huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng.

2. Họ và tên: Vũ Văn G; Tên gọi khác: Không; G tính: Nam Sinh năm: 1982 tại Thái Bình. NKTT và chỗ ở: Thôn 9, xã Lộc Nam, Huyện Bâo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 3/12 Con ông: Vũ Văn Đ (chết); Con bà Lê Thị N (chết). Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình. Vợ: Ka L, sinh năm 1989, hiện sống tại thôn 9, xã Lộc Nam, Huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng. Bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2014, hiện sống cùng mẹ.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/5/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng.

3. Họ và tên: Đỗ Minh T; Tên gọi khác: Không; G tính: Nam Sinh năm: 1973 tại Hưng Yên NKTT và chỗ ở: Thôn 1, xã Lộc Nam, Huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12 Con ông: Đỗ Trọng T, sinh năm 1946; Con bà: Lê Thị K, sinh năm 1951. Hiện ông bà cư trú tại xã Lộc Nam, Huyện Bảo Lâm. Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ, con: Chưa có Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Tại bản án số 10/2007/HSST ngày 18/5/2007 của Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm xử phạt Đỗ Minh T 02 năm tù về tội vận cHển trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/5/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng. (Các bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Người bị hại:

Chị: Lê Thị Bảo N, sinh năm 1982 Địa chỉ: Thôn 4, xã Lộc Nam, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Vắng mặt

* Người có Quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Chị: Đỗ Thị V, sinh năm 1969 Địa chỉ: Thôn 5, Lộc Nam, Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có mặt

2. Ông: Nguyễn Văn V, sinh năm 1967 Địa chỉ: Thôn La Dày, xã Đa Mi, Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phạm Quang H, Vũ Văn G, Đỗ Minh T là các đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Vào khoảng 20 giờ ngày 14/3/2021 Phạm Quang H gặp Vũ Văn G cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản.

H dùng xe mô tô (không rõ biển kiểm soát) chở G đến trước nhà chị Lê Thị Bảo N, NKTT: Thôn 4, xã Lộc Nam, Huyện Bảo Lâm, thấy không ai ở nhà, H và G leo rào vào trong, đi ra sau nhà, dùng cưa sắt chuẩn bị sẵn cưa song cửa sổ nhà chị N, đột nhập vào nhà lấy 01 bếp ga, 01 nồi cơm điện, 01 máy xay sinh tố và 01 bếp điện từ. Sau đó, H chở G đến chùa Văn Thú gần đó giấu 01 bếp điện từ trong bụi cây, còn các tài sản còn lại H cầm cố cho bà Đỗ Thị V, NKTT: Thôn 5, xã Lộc Nam, Huyện Bảo Lâm được số tiền 500.000 đồng, số tiền này H và G mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân hết. Đến khoảng 18 giờ ngày 15/3/2021, Phạm Quang H, Vũ Văn G gặp Đỗ Minh T rủ nhau tiếp tục đến nhà chị N trộm cắp tài sản. Cả ba đi xe mô tô đến nhà chị N, đột nhập vào vị trí cửa sắt đã cưa từ trước, vào trong nhà trộm cắp 01 xe đạp điện hiệu Yamaha EBike, 01 máy giặt hiệu Toshiba loại l0kg, sau đó H điều khiển xe mô tô chở máy giặt đến cầm cố cho bà Đỗ Thị V được số tiền 1.500.000 đồng, H quay lại cùng T chở xe đạp điện đến cầm cố cho ông Nguyễn Văn V, NKTT: Xã Đa Mi, Huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận được số tiền 1.400.000 đồng, số tiền này các đối tượng chia nhau sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân hết.

Tại kết luận định giá tài sản số 39/KLĐG ngày 25/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự Huyện Bảo Lâm kết luận: 01 xe đạp điện hiệu Yamaha E Bike trị giá 1.500.000 đồng; 01 máy giặt hiệu Toshiba loại l0kg trị giá 1.500.000 đồng; 01 bếp từ hiệu Midea trị giá 100.000 đồng; 01 bếp ga trị giá 100.000 đồng; 01 nồi cơm điện trị giá 200.000 đồng; 01 máy xay sinh tố trị giá 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Phạm Quang H, Vũ Văn G chiếm đoạt vào ngày 14/3/2021 là 450.000 đồng, tổng giá trị tài sản Phạm Quang H, Vũ Văn G, Đỗ Minh T chiếm đoạt vào ngày 15/3/2021 là 3.000.000 đồng.

Tại cáo trạng số 50/CT-VKSBL ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Bảo Lâm truy tố bị cáo Phạm Quang H, Vũ Văn G, Đỗ Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay đại điện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Bảo Lâm trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự cho các bị cáo. Riêng bị cáo G áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo H áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS và đeà nghò xử phạt bị cáo Phạm Quang H từ 15 đến 18 tháng tù, bị cáo Vũ Văn G từ 6 đến 9 tháng tù, bị cáo Đỗ Minh T từ 9 đến 12 tháng tù. Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề nghị về trách nhiệm dân sự, án phí HSST và án phí dân sự sỏ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an Huyện Bảo Lâm; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Huyện Bảo Lâm trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm Quyền, trình tự, thủ tục Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người bị hại, vật chứng thu giữ, thể hiện: Phạm Quang H, Vũ Văn G, Đỗ Minh T là các đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Vào khoảng 20 giờ ngày 14/3/2021 Phạm Quang H gặp Vũ Văn G rủ nhau đi trộm cắp tài sản. H dùng xe mô tô (không rõ biển kiểm soát) chở G đến trước nhà chị Lê Thị Bảo N, Địa chỉ: Thôn 4, xã Lộc Nam, Huyện Bảo Lâm, quan sát thấy không ai ở nhà, H và G vào trong, dùng cưa sắt cưa song cửa sổ, vào nhà lấy 01 bếp ga, 01 nồi cơm điện, 01 máy xay sinh tố và 01 bếp điện từ. Sau đó, H mang đến cầm cố cho bà Đỗ Thị V, NKTT: Thôn 5, xã Lộc Nam, Huyện Bảo Lâm được số tiền 500.000 đồng, số tiền này H và G mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân hết. Đến khoảng 18 giờ ngày 15/3/2021, Phạm Quang H, Vũ Văn G gặp Đỗ Minh T rủ nhau tiếp tục đến nhà chị N trộm cắp tài sản. Cả ba đi xe mô tô đến nhà chị N, đột nhập vào vị trí cửa sắt đã cưa từ trước, vào trong nhà trộm cắp 01 xe đạp điện hiệu Yamaha EBike, 01 máy giặt hiệu Toshiba loại l0kg, sau đó H điều khiển xe mô tô chở máy giặt đến cầm cố cho bà Đỗ Thị V được số tiền 1.500.000 đồng, H quay lại cùng T chở xe đạp điện đến cầm cố cho ông Nguyễn Văn V, NKTT: Xã Đa Mi, Huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận được số tiền 1.400.000 đồng, số tiền này các đối tượng chia nhau sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân hết.

Tại kết luận định giá tài sản số 39/KLĐG ngày 25/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự Huyện Bảo Lâm kết luận: 01 xe đạp điện hiệu Yamaha E Bike trị giá 1.500.000 đồng; 01 máy giặt hiệu Toshiba loại l0kg trị giá 1.500.000 đồng; 01 bếp từ hiệu Midea trị giá 100.000 đồng; 01 bếp ga trị giá 100.000 đồng; 01 nồi cơm điện trị giá 200.000 đồng; 01 máy xay sinh tố trị giá 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Phạm Quang H, Vũ Văn G chiếm đoạt vào ngày 14/3/2021 là 450.000 đồng, tổng giá trị tài sản Phạm Quang H, Vũ Văn G, Đỗ Minh T chiếm đoạt vào ngày 15/3/2021 là 3.000.000 đồng. Do đó Viện kiểm sát nhân dân Huyện Bảo Lâm truy tố các bị cáo Phạm Quang H, Vũ Văn G, Đỗ Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Vai trò của từng bị cáo trong vụ án nhận thấy: Bị cáo H có vai trò chủ mưu, rủ các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo G ở gần và biết người bị hại không có nhà nên chỉ cho bị cáo H biết để thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đồng thời cũng là người thực hành tích cực. Đối với bị cáo H đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm; trong vụ án này tài sản trộm cắp mặc dù có giá trị không lớn nhưng các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không tu chí làm ăn, lợi dụng sơ hở của người bị hại để trộm cắp, số tiền chiếm đoạt sử dụng tiêu xài cá nhân hút chích ma túy nên cần xử lý nghiêm và cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm Quang H có 01 tiền án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, chưa đóng án phí và tiền thu lợi bất chính nên chưa được xóa án tích, xác định là tái phạm.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS cho các bị cáo; bị cáo G phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan CSĐT đã tạm giữ 01 xe đạp điện hiệu Yamaha E Bike, 01 máy giặt hiệu Toshiba loại l0kg, 01 bếp từ hiệu Midea, 01 bếp ga, 01 nồi cơm điện, 01 máy xay sinh tố và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Lê Thị Bảo N nên không đề cập đến.

Đối với 01 lưỡi cưa sắt các đối tượng dùng để cưa song cửa sổ đột nhập vào nhà, Cơ quan CSĐT đã truy tìm nhưng không thu hồi được.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường, riêng bà Đỗ Thị V yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 2.000.000 đồng, ông Nguyễn Văn V yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 1.400.000 đồng. Thiệt hại trên các bị cáo có trách nhiệm liên đới bồi thường tương ứng với thiệt hại do các bị cáo gây ra. Qua tính toán bị cáo Phạm Quang H bồi thường số tiền 1.217.000đ gồm: Bồi thường cho chị Đỗ Thị V số tiền 750.000đ, bồi thường cho anh Nguyễn Văn V số tiền 467.000đ; bị cáo Vũ Văn G bồi thường số tiền 1.217.000đ gồm: Bồi thường cho chị Đỗ Thị V số tiền 750.000đ, bồi thường cho anh Nguyễn Văn V số tiền 467.000đ; bi cáo Đỗ Minh T bồi thường số tiền 966.000đ gồm: Bồi thường cho chị Đỗ Thị V số tiền 500.000đ, bồi thường cho anh Nguyễn Văn V số tiền 466.000đ.

[8] Trong vụ án, bà Đỗ Thị V, ông Nguyễn Văn V có hành vi tiêu thụ tài sản do các bị cáo trộm cắp mà có nhưng tại thời điểm nhận tài sản, họ nhận thức đây là tài sản hợp pháp của Phạm Quang H nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà Đỗ Thị V, ông Nguyễn Văn V là có căn cứ.

[9] Về án phí: Bị cáo Phạm Quang H, Vũ Văn G, Đỗ Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo Quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Trường hợp Phạm Quang H, Vũ Văn G, Đỗ Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

* Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Phạm Quang H 15 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/5/2021.

* Ap dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo G áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Minh T 12 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/5/2021.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn G 09 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/5/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự. Buộc các bị cáo Phạm Quang H, Vũ Văn G, Đỗ Minh T liên đới bồi thường cho bà Đỗ Thị V số tiền 2.000.000 đồng, bồi thường cho ông Nguyễn Văn V số tiền 1.400.000 đồng. Qua tính toán Phạm Quang H bồi thường số tiền 1.217.000đ gồm: Bồi thường cho chị Đỗ Thị V số tiền 750.000đ, bồi thường cho anh Nguyễn Văn V số tiền 467.000đ; bị cáo Vũ Văn G bồi thường số tiền 1.217.000đ gồm: Bồi thường cho chị Đỗ Thị V số tiền 750.000đ, bồi thường cho anh Nguyễn Văn V số tiền 467.000đ; bi cáo Đỗ Minh T bồi thường số tiền 966.000đ gồm: Bồi thường cho chị Đỗ Thị V số tiền 500.000đ, bồi thường cho anh Nguyễn Văn V số tiền 466.000đ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất Quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có Quy định khác.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Quang H, Vũ Văn G, Đỗ Minh T mỗi bị cáo nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo biết có quyn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người bị hại, liên quan vắng mặt có Quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án (hoặc niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã phường nơi cư trú) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2021/HSST ngày 13/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:56/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về