Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 09/07/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM

 BẢN ÁN 56/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 09 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 42/2021/TLST-HNGĐ ngày 06/5/2021 về việc: " Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn " theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 06 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Hà T, sinh năm: 1994; địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

- Bị đơn: Anh Đinh Văn H, sinh năm: 1994; địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Hiện nay đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy Quảng Nam thuộc xã Sông Trà, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

Chị T, anh H xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo của nguyên đơn chị Phan Thị Hà T thể hiện:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị Hà T và anh Đinh Văn H tự nguyện tìm hiểu, xác lập quan hệ hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Quảng Nam vào năm 2016. Cuộc sống chung giữa chị T và anh H không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn, do anh H chơi bời, nghiện ma túy, không lo làm ăn, không có trách nhiệm với vợ, con, vợ chồng không còn tình cảm với nhau. Hiện nay chị nhận thấy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Đinh Nhật M sinh ngày 12/6/2017 và Đinh Nhật H sinh ngày 17/1/2019 khi ly hôn chị xin được chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu đến tuổi trưởng thành, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai bị đơn anh Đinh Văn H thể hiện:

Anh H thống nhất lời khai của chị T về quan hệ hôn nhân, con chung, theo anh vợ chồng không có mâu thuẫn, chị T ly hôn do anh nghiện ma túy không chăm sóc cho vợ con, nguyện vọng anh xin được đoàn tụ nhưng nếu chị T vẫn cương quyết ly hôn thì anh đồng ý ly hôn với chị T. Về con chung anh đồng ý giao 2 con cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị T ly hôn với anh Đinh Văn H; về con chung chị T có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung, anh H đồng ý nên giao con chung cho chị T chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp; về tài sản chung, nợ chung chị T, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị T và anh Đinh Văn H có yêu cầu xét xử vắng mặt, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa chị Phan Thị Hà T và anh Đinh Văn H dựa trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Quảng Nam vào năm 2016 nên hôn nhân giữa chị T và anh H là hợp pháp. Sau thời gian sống chung, cuộc sống vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H chơi bời, nghiện ma túy, không lo làm ăn, không có trách nhiệm với vợ, con, vợ chồng không còn tình cảm với nhau. Hiện nay chị T nhận thấy mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Theo lời khai của anh H thống nhất lời khai của chị T về quan hệ hôn nhân, con chung, theo anh vợ chồng không có mâu thuẫn, chị T ly hôn do anh nghiện ma túy, nguyện vọng anh xin được đoàn tụ nhưng nếu chị T vẫn cương quyết ly hôn thì anh đồng ý ly hôn với chị T. Về con chung anh đồng ý giao 2 con cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng.

Xét thấy, sau khi thụ lý vụ án chị T có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải. Tại bản tự khai anh H có nguyện vọng xin được đoàn tụ nhưng nếu chị T vẫn cương quyết ly hôn thì anh đồng ý ly hôn với chị T. Xét thấy, giữa chị T, anh H phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh H không có trách nhiệm với vợ, con anh H sử dụng và nghiện ma túy từ năm 2010 đến nay. Ngày 14/5/2021 Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với anh H, thời gian chấp hành tại cơ sở cai nghiện là 20 tháng. Nhận thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh H đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở và phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị T có nguyện vọng chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung là Đinh Nhật M sinh ngày 12/6/2017 và Đinh Nhật H sinh ngày 17/1/2019 đến tuổi trưởng thành, anh H đồng ý, nên giao cho chị T chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp. Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét

[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị T, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[2.4]. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại Nghị quyết số: 326/2016./UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

[3]. Từ những nhận định nêu trên, xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên cần phải chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, Điều 28; Điều 147; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Hà T đối với anh Đinh Văn H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Phan Thị Hà T ly hôn với anh Đinh Văn H.

2. Về con chung: Giao hai con chung là Đinh Nhật M sinh ngày 12/6/2017 và Đinh Nhật H sinh ngày 17/1/2019 cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), anh H không cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

Anh H có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở. Khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về án phí: Chị Phan Thị Hà T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0004856 lập ngày 06/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Phước. Chị T đã nộp đủ tiền án phí.

Chị Phan Thị Hà T, anh Đinh Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 09/07/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:56/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Phước - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về