Bản án 56/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 56/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2020/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Huy B, tên gọi khác: Không, sinh năm 1986, tại Nam Định.

Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố V, phường M, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Tự do; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Trần Huy M (Đã chết) và bà Trần Thị K; Vợ là Nguyễn Thị N. Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 18-3-2020, Công an xã M, huyện M, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo quyết định số 04/QĐ-XPHC; đến ngày 24-10-2020, B chấp hành xong quyết định.

Nhân thân: Ngày 28-8-2018, Công an thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo quyết định số 68-QĐ/XPVPHC; đến ngày 28-8- 2018, Bình đã chấp hành xong quyết định.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05-11-2020 cho đến nay (Có mặt).

- Bị hại:

+ Anh Đoàn Văn Đ, sinh năm 1981. (Vắng mặt).

+ Chị Đoàn Thị Đ, sinh năm 1990. (Vắng mặt).

Đều có nơi cư trú: Xóm 6, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định.

- Người làm chứng:

+ Bà Trần Thị K. (Có mặt).

+ Ông Phạm Ngọc K. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền mua ma túy sử dụng nên Trần Huy B nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền mua ma túy. Thực hiện ý định trên, khoảng 08 giờ 30 phút ngày 05-11-2020, B một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, BKS 18Z9-1342 đi từ nhà đến khu vực tái định cư thuộc xóm 6, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định để tìm tài sản trộm cắp. Tại đây B phát hiện đống sắt gồm nhiều bộ phận của máy cơ khí (máy ép cọc bê tông, máy bơm nước…) của gia đình anh Đoàn Văn Đ để ở vỉa hè phía đối diện, cách nhà ở của anh Đ khoảng 30m, không có người trông coi. Sau khi đi lòng vòng quanh khu vực này để quan sát, thấy không có ai, B dựng xe mô tô dưới lòng đường (bên trái đường theo hướng từ khu tái định cư ra cầu S2), cách vị trí có đống sắt khoảng 5-6m. B đi bộ đến chỗ đống sắt, dùng hai tay bê 01 (một) khối sắt hình trụ màu nâu, có chiều dài 48cm, đường kính rộng nhất 33cm, bên trong rỗng, cân nặng 14,5kg mang sang đặt cạnh xe mô tô của mình, nhìn thấy 01 chiếc xe ô tô đi đến B đợi cho chiếc xe ô tô đi qua, sau đó B lại tiếp tục quay lại chỗ đống sắt và bê tiếp 01 (Một) khối sắt hình chữ T, màu nâu, kích thước (60x45) cm, cân nặng 12kg, từ trong thùng phi đặt xuống đất. Khi B vừa bê khối sắt hình chữ T lên để mang ra xe mô tô đưa đi tiêu thụ thì bị anh Phạm Ngọc K phát hiện bắt quả tang, hô hoán quần chúng nhân dân giữ B lại và bàn giao cho Công an xã T, huyện V, tỉnh Nam Định. Quá trình bắt giữ B, Công an xã T đã thu giữ 01 khối sắt hình trụ; 01 khối sắt hình chữ T; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONLEI BKS 18Z9-1342, sơn màu nâu; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A30, vỏ màu xanh, đã qua sử dụng, số IMEI 354868101063040.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 44/KL-HĐ ngày 06- 11-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện V, kết luận:

- 01 Khối sắt hình trụ dài 48cm, rộng 33cm, bên trong rỗng, trọng lượng 14,5kg có giá trị là 65.250 đồng.

- 01 Khối sắt hình chữ T, kích thước (60x45)cm, trọng lượng 12kg, có giá trị 54.000 đồng.

Tổng giá trị của 02 khối sắt là: 119.250đ (một trăm mười chín nghìn hai tăm năm mươi đồng).

Tại Bản Cáo trạng số 54/CT-VKSVB ngày 25-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Trần Huy B về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo Trần Huy B thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân V, tỉnh Nam Định giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Huy B về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Huy B từ 06 đến 09 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

+ Về trách nhiệm dân sự không xem xét.

+ Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi của bị cáo:

Trần Huy B là người có đủ sức khỏe nhưng lại sa ngã vào tệ nạn xã hội, nghiện hút ma túy. Nên vào sáng ngày 05-11-2020, tại khu vực tái định cư thuộc xóm 6, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định, bị cáo có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) khối sắt hình trụ và 01 (một) khối sắt hình chữ T có tổng trị giá 119.250đ (Một trăm mười chín nghìn hai trăm năm mươi đồng) của gia đình anh Đoàn Văn Đ, thì bị quần chúng nhân dân phát hiện bắt quả tang.

Tuy giá trị tài sản trộm cắp không lớn, nhưng ngày 18-3-2020, bị cáo đã bị Công an thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính dưới hình thức phạt tiền về hành vi “trộm cắp tài sản”. Như vậy, hành vi của bị cáo B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Trần Huy B về tội “trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Nhân thân bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “trộm cắp tài sản”.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn. Nên Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Hình phạt:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương. Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục trộm cắp tài sản. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện sự xem thường pháp luật, bất chấp hậu quả xảy ra. Do đó, căn cứ vào nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét thấy cần xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tương xứng và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo nghiện hút ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định được chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, BKS 18Z9-1342 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A30 là của bà Trần Thị K, bà K không biết việc bị cáo sử dụng để đi trộm cắp tài sản. Nên cơ quan CSĐT công an huyện V đã trả lại cho bà K chiếc xe mô tô và điện thoại di động là phù hợp.

Đối với 01 khối sắt hình trụ dài 48cm, rộng 33cm, bên trong rỗng, trọng lượng 14,5kg và 01 khối sắt hình chữ T, kích thước (60x45)cm, trọng lượng 12kg là của gia đình anh Đoàn Văn Đ. Cơ quan CSĐT công an đã trả lại cho anh Đ, chị Đ là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại toàn bộ số sắt mà B trộm cắp, anh Đoàn Văn Đ và chị Đoàn Thị Đ không có ý kiến gì và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm; nên về trách nhiệm dân sự trong vụ án này không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Huy B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Trần Huy B 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 05-11-2020.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Huy B phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

624
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:56/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về