Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 56/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON 

Trong ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 205/2020/TLST-HNGĐ ngày 21/7/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, và tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số: 84/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17/08/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: P.T.H, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Số 42 ấp HĐ, xã NT, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông N.V.P, sinh năm 1974.

Địa chỉ: Số 42 ấp HĐ, xã NT, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng (Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện về việc ly hôn ngày 25/5/2020, chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên toà, nguyên đơn bà P.T.H trình bày: Bà P.T.H và ông N.V.P kết hôn vào năm 1991 và tự nguyện sống chung như vợ chồng. Đến ngày 09/12/2011 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã NT, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Sau khi cưới bà và ông P chung sống hạnh phúc được đến năm 2018 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do ông Pkhông còn quan tâm đến gia đình, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Nay bà H xác định vợ chồng không còn tình cảm, nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông N.V.P.

Về con chung: Bà P.T.H và ông N.V.P có 03 người con chung tên N.T.K.C , sinh năm 1993 đã trường thành; N.T.P.D , sinh ngày 30/5/2005 và N.T. K., sinh ngày 02/12/2011 hiện nay con chung đang sống với bà H . Khi ly hôn bà H yêu cầu được quyền nuôi tiếp tục nuôi dưỡng hai người con N.T.P.D và N.T. K..

- Về cấp dưỡng nuôi con: Bà P.T.H không yêu cầu ông N.V.P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu tòa án giải quyết * Đối với bị đơn ông N.V.P: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho ông N.V.P theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng ông Pkhông liên lạc với Tòa án, không gửi ý kiến bằng văn bản cho Toà án biết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cũng không đến Toà án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không đến tham gia phiên toà xét xử sơ thẩm. Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo trình tự quy định của pháp luật.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Kể từ khi thụ lý đến thời điểm nghị án, Thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự khi tham gia tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà P.T.H được ly hôn với ông N.V.P. Giao cho bà P.T.H được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai người con chung tên N.T.P.D , sinh ngày 30/5/2005 và N.T. K., sinh ngày 02/12/2011đến tuổi trưởng thành (theo nguyện vọng của N.T.P.D và N.T. K.). Ông N.V.P được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở; ghi nhận sự tự nguyên của Bà P.T.H về việc không yêu cầu ông Pcấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét; Về nợ chung: Không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và lời trình bày của nguyên đơn P.T.H. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong vụ án này, bà H yêu cầu ly hôn với ông Pvà giải quyết nuôi con. Quan hệ pháp luật nêu trên được điều chỉnh tại các Điều 51, Điều 56 và Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình, thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn N.V.P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã NT, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 09/12/2011 theo đúng quy định. Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn, sổ hộ khẩu, giấy khai sinh con mà nguyên đơn cung cấp cho Tòa án, Hội đồng xét xử khẳng định lời trình bày của nguyên đơn P.T.H có kết hôn với bị đơn N.V.P là sự thật, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy, giữa bà P.T.H và ông N.V.P đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng sau đó thì bất đồng quan điểm thường xuyên cự cải làm cho tình cảm không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng dẫn đến bà H và ông P không còn tiếp tục sống chung với nhau.

Nguyên đơn kiên quyết xin ly hôn vì cho rằng vợ chồng không còn tình cảm thương yêu nhau, cuộc sống chung không còn hạnh phúc. Xét thấy, trong quá trình chung sống nguyên đơn và bị đơn đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, hiện không còn sống chung với nhau, cuộc sống vợ chồng mạnh ai nấy sống, không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình là đã vi phạm nghiêm trọng về nghĩa vụ của vợ chồng được quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình. Từ đó chứng tỏ rằng tình yêu giữa vợ chồng không còn nữa, mặc dù đang tồn tại quan hệ hôn nhân nhưng giữa bà H và ông Pkhông có tình nghĩa vợ chồng. Những biểu hiện trên cho thấy, nguyên đơn và bị đơn không thể sống chung để cùng nhau xây dựng được gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Do đó, Hội đồng xét xử nhận định: Quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn P.T.H và bị đơn N.V.P thật sự trong tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Từ những phân tích nhận định như trên, xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn P.T.H đối với bị đơn N.V.P là có cơ sở chấp nhận. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết cho bà P.T.H được ly hôn với ông N.V.P.

[3] Về con chung: Bà P.T.H và ông N.V.P có với nhau có 03 người con là N.T.K.C , sinh năm 1993 đã trưởng thành; N.T.P.D , sinh ngày 30/5/2005 và N.T. K., sinh ngày 02/12/2011 hiện tại sinh sống với bà H . Trong quá trình giải quyết vụ án, bà P.T.H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung không yêu cầu ông Pphải cấp dưỡng nuôi con. Xét tại thời điểm xét xử N.T.K.C , sinh năm 1993 đã trưởng thành nên không đặt ra xem xét. Đối với hai con chung là N.T.P.D và N.T. K. thì tại tờ tường trình ngày 20/7/2020 cháu Duy và cháu Khanh có nguyện vọng được sống với mẹ là bà H , hiện tại cháu Duy và cháu Khanh đang sống với bà H cuộc sống hằng ngày của hai cháu vẫn ổn định, phát triển tốt về thể chất và tinh thần; Bà H cũng có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng các con. Do đó, để đảm bảo cho cuộc sống của cháu Duy và cháu Khanh được ổn định, phát triển tốt về thể chất và tinh thần, Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình để giao cháu N.T.P.D và N.T. K. cho bà P.T.H được tiếp tục nuôi dưỡng.

[4]Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị P.T.H không yêu cầu ông Pphải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn P.T.H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn P.T.H phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên đã nêu là có căn cứ phù hợp với những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, đánh giá tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điểm c Khoản 1 Điều 92, Khoản 2 Điều 143, Khoản 3 Điều 144, Khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273, của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 19, Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 58, Khoản 2 Điều 81, khoản 1, khoản 3 Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà P.T.H được ly hôn với ông N.V.P.

2/ Về con chung: Giao cho bà P.T.H được trực tiếp nuôi dưỡng hai người con chung tên N.T.P.D , sinh ngày 30/5/2005 và N.T. K., sinh ngày 02/12/2011, ông N.V.P không phải cấp dưỡng nuôi con.Trong thời gian bà P.T.H nuôi con, không ai có quyền cản trở sự quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục của cha mẹ đối với con.

3/ Về tài sản chung và nợ chung: Bà P.T.H và ông N.V.P không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4/ Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nguyên đơn P.T.H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005455 ngày 25/06/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, bà P.T.H đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo đối với Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, đối với bị đơn thời hạn kháng cáo nêu trên được tính kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày niêm yết bản án hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con

Số hiệu:56/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về