TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 56/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 07 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 223/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 về việc “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐST- HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1995; đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn K 3, xã H, huyện K, thành phố Hải Phòng, có mặt.
- Bị đơn: Anh Ngô Văn D, sinh năm 1987; đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn K 3, xã H, huyện K, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn đề ngày 22 tháng 6 năm 2020 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện K, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị N trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Ngô Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 31 tháng 12 năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện K, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn anh chị cùng chung sống tại thôn K 3, xã H, huyện K, thành phố Hải Phòng. Chị N và anh D chung sống hòa thuận hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, anh D chơi bời và không quan tâm đến cuộc sống gia đình. Do mâu thuẫn nên hai bên thường xuyên xảy ra cãi vã, đánh chửi nhau, mặc dù đã được gia đình và địa phương hòa giải nhưng không cải thiện được. Do mâu thuẫn nên chị N và anh D đã sống ly thân từ cuối năm 2016 cho đến nay, trong quá trình ly thân hai bên không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D.
Về con chung: Chị N khai vợ chồng có 01 con chung là Ngô Trung H sinh ngày 02 tháng 02 năm 2016, hiện đang do chị N nuôi dưỡng. trường hợp ly hôn chị đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng cháu H. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị N tự thỏa thuận với anh D nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị N khai vợ chồng tự thỏa thuận với nhau, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Ngô Văn D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng đến ngày Tòa án mở phiên tòa xét xử lần thứ hai anh D vẫn không có mặt tại Tòa án để có ý kiến về yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị N.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị N và anh Ngô Văn D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh D. Về con chung, giao cháu Ngô Trung H cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng; về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị N để tự thỏa thuận với anh D nên đề nghị hội đồng xét xử không xem xét; Về tài sản chung, đề nghị hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Ngô Văn D đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để anh D có mặt tại Toà án trình bày ý kiến của mình về việc chị Nguyễn Thị N có đơn xin ly hôn nhưng anh D vắng mặt tại phiên tòa hai lần không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn là anh Ngô Văn D.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị N và anh Ngô Văn D là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, anh D chơi bời, không chăm lo làm ăn kinh tế và không quan tâm tới cuộc sống gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi mắng xúc phạm nhau. Kết quả xác minh tại chính quyền địa phương và gia đình thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh D phù hợp với lời khai của chị N. Chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh D, anh D không có mặt tại Tòa theo giấy triệu tập của Tòa án và vắng mặt tại các buổi hòa giải cũng như tại phiên tòa xét xử. Như vậy thể hiện tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh D đã trầm trọng, khả năng vợ chồng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị N xin ly hôn với anh D.
[3] Về con chung: Chị N và anh D có 01 con chung là Ngô Trung H sinh ngày 02 tháng 02 năm 2016. Trường hợp ly hôn chị N đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H. Việc giao con chưa thành niên cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên cũng như đảm bảo quyền được chăm sóc nuôi dưỡng con của cả cha, mẹ. Xét hiện nay, chị N đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu H từ năm 2016 cho đến nay và cháu H vẫn được chăm sóc đảm bảo tốt về mọi mặt. Anh D mặc dù đã được Tòa án thông báo về việc giao nộp các tài liệu, chứng cứ để chứng minh về điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng con chung như nơi ở, nghề nghiệp, thu nhập hàng tháng....nhưng anh D không cung cấp cho Tòa án. Như vậy xét về mọi mặt, chị N có điều kiện chăm sóc con chung đảm bảo hơn so với anh D, cần chấp nhận đề nghị của chị N, giao con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị N đề nghị để tự thỏa thuận với anh D nên hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Chị N khai vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản chung, không đề nghị Tòa án giải quyết, anh D vắng mặt và chưa có lời khai về tài sản chung vợ chồng, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNHe
Căn cứ khoản khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Ngô Văn D.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung Ngô Trung H sinh ngày 02 tháng 02 năm 2016 cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ngô Trung H đủ 18 tuổi, có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
2.2. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn anh Ngô Văn D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai số 0009300 ngày 02/7/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, thành phố Hải Phòng. Chị N đa nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị N có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Ngô Văn D vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về ly hôn, nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 56/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về