Bản án 56/2019/HSST ngày 25/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 56/2019/HSST NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 57/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Thế K Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 07/4/1957, tại tỉnh Thái Bình; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố 10, phường N, thành Phố Đ, tỉnh B. Chỗ ở: Tổ dân phố 14, phường M, thành phố Đ, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Nghỉ chế độ hưu trí; Trình độ văn hóa:10/10 phổ thông; Con ông:Phạm Văn D và con bà: Hà Thị M (Đã chết); Vợ: Đặng Thị L; Bị cáo có 02 con (con lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 1992); Tiền án, tiền sư: Không. Bị tạm giữ từ ngày 12/7/2019 đến 21/7/2019, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa

2. Họ và tên: Nguyễn Minh Đ Tên gọi khác: Không Sinh ngày: 26/3/1976, tại tỉnh B; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Số nhà 24, tổ dân phố 20, phường M, thành phố Đ, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Giáo viên; Trình độ văn hóa: 12/12 phổ thông; Con ông: Nguyễn Tiến V và con bà: Nguyễn Thị X; Vợ: Dương Thị Hồng G; Bị cáo có 02 con (con lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2010); Tiền án, tiền sư: Không. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2019 đến 23/8/2019 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh, bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: (vắng mặt)

Bà Vũ Thị T- Sinh năm: 1957; địa chỉ: Tổ dân phố 14, phường M, thành phố Đ, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 19 giờ 26 phút ngày 11/7/2019 Nguyễn Minh Đ dùng điện thoại OPPO của mình nhắn tin vào điện thoại Intel của Phạm Thế K là mua 04 viên Hồng phiến mục đích để cả hai cùng sử dụng, K đồng ý. Sau đó K đưa 300.000 đồng cho một người tên là Đông (không biết họ, tên đệm và địa chỉ) mua hộ 04 viên Hồng phiến mang đến đưa cho K tại cổng nhà số 111, tổ 14, phường M, thành phố Đ, nơi K đang thuê ở trọ. K mang Hồng phiến lên phòng trọ số 2, tầng 2của mình thuê trọ để trên mặt đệm, phía cuối giường ngủ rồi xuống cổng nhà trọ đón Đ lên phòng.Tại đây K và Đ dùng điếu tự chế sử dụng hết 02 viên Hồng phiến bằng hình thức đốt, hút. Đúng lúc này Công an phường M đến kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ 02 viên Hồng phiến còn lại K để trên mặt đệm phía cuối giường và công cụ mà K và Đ dùng để sử dụng ma túy là 01 điếu tự chế, 01 bật lửa ga màu vàng, 01 mảnh giấy bạc màu trắng có vết cháy xám trên mặt nền nhà. Ngoài ra còn tạm giữ 02 chiếc điện thoại kèm sim của K và Đ dùng để liên lạc với nhau mua ma túy sử dụng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai nhận: Vào hồi 21 giờ 30 phút ngày 11/7/2019 tại phòng số 2, tầng 2, số nhà 111, tổ dân phố 14, phường M, thành phố Đ, Phạm Thế K và Nguyễn Minh Đ đã có hành vi cất giấu trái phép 0,2 gam Methamphetamine tại nơi ở của K với mục đích để cả hai người cùng sử dụng Các vấn đề khác:

Tại bản kết luận giám định số 777/GĐ-PC09 ngày 19/7/2019 phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy: Loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2 gam. Hoàn lại mẫu vật sau khi giám định 0,17 gam. STT: 323, Mục IIC, danh mục II, Nghị định 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có khiếu nại về kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B nêu trên.

Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Tại bản cáo trạng số 54/CT-VKSTPĐBP ngày 10/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, truy tố các bị cáo Phạm Thế K và Nguyễn Minh Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ Giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Thế K từ 15 đến 18 tháng tù giam.

Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Đ từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt.

Giao bị cáo Nguyễn Minh Đ cho UBND phường M, thành phố Đ, tỉnh B giám sát giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND phường M, thành phố Đ, tỉnh B trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,17gam Methamphetamine còn lại sau giám định và 01 điếu hút tự chế bằng chai nhựa; 01 bật lửa ga màu vàng hiệu thống nhất; 01 mảnh giấy bạc màu trắng; Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại OPPO kèm 02 sim, 01 điện thoại Intel kèm 02 sim.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sư sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Tại phiên tòa, các bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật, thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố là đúng, các bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi bị truy tố của các bị cáo: Lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang; kết luận giám định, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Vào hồi 21 giờ 30 phút ngày 11/7/2019 tại phòng số 2, tầng 2, số nhà 111, tổ dân phố 14, phường M, thành phố Đ, Phạm Thế K và Nguyễn Minh Đ đã có hành vi cất giấu trái phép 0,2 gam Methamphetamine tại nơi ở của K với mục đích để cả hai người cùng sử dụng. Hành vi nêu trên của các bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine,Cocaine, Methamphetamine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp; Vì vậy khẳng định Viện kiểm sát truy các bị cáo Phạm Thế K, Nguyễn Minh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy:

Qua phần xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa thể hiện nguyên nhân dẫn đến việc các bị cáo phạm tội là do thiếu ý thức rèn luyện bản thân, tu dưỡng phẩm chất đạo đức và thiếu ý thức trong việc chấp hành các quy định của pháp luật; nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật hình sự nhưng để phục vụ nhu cầu của bản thân các bị cáo đã lao vào con đường phạm tội:

Ngày 11/7/2019 các bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự .Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đối với bị cáo Phạm Thế K được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Vì vậy bị cáo K được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự Đối với bị cáo Nguyễn Minh Đ có thành tích xuất sắc trong công tác, được công nhận là Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở và là giáo viên dạy giỏi, bố của bị cáo Đ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến nên bị cáo Đ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật quy định tại điểm s, v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn.

Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy: Đối với bị cáo Phạm Thế K là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo đã bỏ tiền, tìm mua ma túy và cất dấu ma túy tại nơi ở của mình lên bị cáo K là người thực hành tích cực hơn. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo K ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện lao động, học tập, cải tạo sửa chữa lỗi lầm để trở người công dân có ích cho gia đình và xã hội. Đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để bị cáo từ bỏ được ma túy sớm trở lại hòa nhập với gia đình và cộng đồng.

Đối với bị cáo Nguyễn Minh Đ. Căn cứ các quy định của pháp luật và xem xét toàn bộ nội dung vụ án, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 và có 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo để cải tạo trong môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát theo dõi, giáo dục của cơ quan tổ chức có thẩm quyền cũng đủ để răn đe giáo dục bị cáo, đồng thời giao bị cáo cho gia đình và chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị cáo, đó cũng là thể hiện sự khoan hồng của Đảng, pháp luật Nhà nước ta đối với người phạm tội theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xết về điều kiện thực tế thì thấy rằng, đối với Phạm Thế K là đối tượng nghiện ma túy, ngoài đồng lương hưu trí ra bị cáo không có nguồn thu nhập nào, bị cáo không có tài sản riêng, không có điều kiện thi hành. Đối với bị cáo Nguyễn Minh Đ ngoài lương hàng tháng ra bị cáo cũng không có nguồn thu nào khác, không có tài sản riêng, không có điều kiện thi hành. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5]. Các bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người đàn ông nhưng không biết địa chỉ của người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý

[6]. Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,17gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau khi giám định), 01 điếu tự chế, 01 bật lửa ga màu vàng, 01 mảnh giấy bạc màu trắng có vết cháy xám; Tịch thu sung Nhà nước 01 điện thoại di động OPPO kèm 02 sim; 01 điện thoại Intel kèm 02 sim. Theo quy đinh tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Buộc bị cáo Phạm Thế K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Thế K, Nguyễn Minh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Thế K 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (12/7/2019).

Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Đ 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/9/2019). Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Nguyễn Minh Đ cho UBND phường M, thành phố Đ, tỉnh B giám sát giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND phường M, thành phố Đ, tỉnh B trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú (theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự) trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy 0,17gam Methamphetamine (vật chứng còn lại sau khi giám định); 01 điếu tự chế; 01 bật lửa ga màu vàng; 01 mảnh giấy bạc màu trắng có vết cháy xám. Tịch thu sung gân sách Nhà nước 01 điện thoại di động OPPO kèm 02 sim; 01 điện thoại Intel kèm 02 sim.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/9/2019 giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Buộc bị cáo Phạm Thế K phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HSST ngày 25/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về