Bản án 56/2019/HSST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 56/2019/HSST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại Nhà văn hóa thôn Trung Hậu, xã Tề Lỗ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Tạ Quang N, sinh ngày 31 tháng 01 năm 1973; sinh trú quán: Thôn G1, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Tạ Quang T và bà Nguyễn Thị I; có vợ là Đặng Thị L và có 02 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 1997; tiền sự: Không;

Tiền án: Có 01 tiền án.

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2012/HSST ngày 25/5/2012, Tạ Quang N bị Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đến nay bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù do được tha tù trước thời hạn nhưng chưa được xóa án tích.

Về nhân thân: Năm 2006 Tạ Quang N bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 24 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2019 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, (có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 29/8/2019, Tạ Quang N đang ở nhà thì có một người đàn ông tên là S, N khai là bạn quen biết ngoài xã hội của N, điều khiển xe mô tô đến rủ N đi mua ma túy về sử dụng. S và N mỗi người góp 100.000 đồng rồi S điều khiển xe mô tô chở N đến khu vực cầu H thuộc phường H, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc để mua ma túy. Tới nơi, S đứng chờ còn N một mình đi tìm và mua của một người phụ nữ không rõ tên tuổi, địa chỉ được 01 gói ma túy (Heroine) với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, N quay lại chỗ S đang chờ, S điều khiển xe mô tô chở N đến đoạn đường thuộc thôn H, xã Trung N, huyện Yên Lạc thì N xuống xe đứng chờ còn S đi mua bơm kim tiêm để cùng sử dụng ma túy. Khi N đang đứng chờ S thì bị tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật. Gồm: Thu tại lòng bàn tay phải của N 01 gói nhỏ bằng nilon màu đỏ trong cùng chứa chất bột, dạng cục màu trắng, N khai là ma túy vừa cùng S mua để sử dụng, được niêm phong trong bao gói ký hiệu A1 và thu của N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Point đã qua sử dụng.

Tại kết luận giám định số: 1792/KLGĐ ngày 03/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, dạng cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi đến giám định có khối lượng bằng 0,2137gam (không phảy hai một ba bảy gam) không kể bao bì là chất Heroine nằm trong danh mục I, STT09, Nghị định số: 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ.

Vật chứng của vụ án: 01 bao gói niêm phong ký hiệu “MẪU TRẢ” do Cơ quan giám định hoàn trả là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Point thu của Tạ Quang N.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Tạ Quang N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như các nội dung nêu trên.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Tạ Quang N cũng đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như các lời khai tại Cơ quan điều tra.

Bản cáo trạng số: 55/CT - VKS ngày 14/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Tạ Quang N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau và phù hợp với các vật chứng đã thu giữ được. Từ đó có đủ cở sở để xác định bị cáo Tạ Quang N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Tạ Quang N và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Tạ Quang N từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo N.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất quan điểm về xử lý vật chứng liên quan đến vụ án và án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Tạ Quang N không có ý kiến gì tham gia tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án này đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không có kiến nghị hay khắc phục gì.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Tạ Quang N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố mà không có lời tự bào chữa nào khác. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với các vật chứng đã thu được và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 29/8/2019, tại khu vực thôn H, xã Trung N, huyện Yên Lạc. Tạ Quang N đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy có khối lượng là 0,2137gam (không phảy hai một ba bảy gam) không kể bao bì là chất Heroine nằm trong danh mục I, STT09, Nghị định số: 73/2018/NĐ - CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ thì bị tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Với hành vi trên của Tạ Quang N đã có đủ cơ sở để khẳng định, bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy đinh tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều luật quy định:

“Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm …c, Heroin ,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam …”

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý; xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý đang là tệ nạn xã hội có chiều hướng ngày càng gia tăng, gây nên sự đau khổ bất hạnh cho nhiều gia đình; ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tội phạm về ma tuý là nguy cơ dẫn đến các tội phạm khác như trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản…ngoài ra nó còn là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến căn bệnh thế kỷ: HIV - AIDS.

Khi đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tạ Quang N là đối tượng có nhân thân xấu, năm 2012 đã có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng N không lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân, sau khi chấp hành xong hình phạt tù chưa được xóa án tích lại còn tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nên N phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm minh trước pháp luật. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, bị cáo còn có bố đẻ là ông Tạ Quang T được Nhà nước tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang cho nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Đối với người đàn ông tên là S: Quá trình điều tra, Tạ Quang N khai nhận. Do N là đối tượng nghiện ma túy, qua bạn bè ngoài xã hội nên N quen biết S nhưng N chỉ nghe thông tin S là người khoảng 35 tuổi, cao khoảng 1m60, dáng người gầy trú tại thôn Đông Lỗ, xã Trung N, huyện Yên Lạc. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại thôn Đông Lỗ, xã Trung N, huyện Yên Lạc xác định được 01 đối tượng có nhân thân lai lịch tên là Nguyễn Đức S, sinh năm 1975. Cơ quan điều tra đã nhiền lần triệu tập S đến làm việc nhưng hiện tại S không có mặt tại địa phương cho nên chưa lấy được lời khai của S. Vì vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ thì xử lý sau.

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho N tại khu vực cầu H, phường H, thành phố V. Do N không xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể của đối tượng này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để tiến hành xác minh và không đề cập xử lý.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói niêm phong ký hiệu “MẪU TRẢ” do Cơ quan giám định hoàn trả là vật Nhà nước cấm lưu hành. Trả lại cho Tạ Quang N 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Point, quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại trên là tài sản hợp pháp của N không liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản cho nên, bị cáo Tạ Quang N có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy rằng, bản thân bị cáo N là đối tượng bị nghiện ma túy, lại không có công việc ổn định nên thu nhập bấp bênh, điều kiện kinh tế của bị cáo khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Tạ Quang N phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Tạ Quang N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Tạ Quang N 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị báo bị bắt tạm giữ tạm giam 29/8/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại cho Tạ Quang N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Point đã cũ nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án. Tịch thu tiêu hủy 0,0896 gam ma túy cùng toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định tại mẫu ký hiệu A1 được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ” là vật Nhà nước cấm lưu hành.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Chi cục thi hành án huyện Yên Lạc và Công an huyện Yên Lạc ngày 16 tháng 11 năm 2019).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Tạ Quang N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HSST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về