TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Vào hồi 15 giờ 30 phút, ngày 18 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 63/2019/TLST-HS, ngày 01 tháng 11 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2019/QĐXXST-HS, ngày 05 tháng 11năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Hồ Bá Q; sinh ngày: 25/9/1978; tại huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn L, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Bá M và bà Nguyễn Thị H; vợ con: Chưa; anh chị em ruột: Có 05 người, bị cáo là con thứ hai; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 22/4/1999 bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 15 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 03/3/2010 nhưng chưa được xóa án tích; ngày 26/6/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xử phạt 05 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 26/02/2018 nhưng chưa được xóa án tích; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 06/9/2019 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
- Những người bị hại:
1. Anh Hà Quốc N, sinh ngày: 28/02/1991. Trú tại: Thôn L, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiêp: Lao động tự do. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Chị Hồ Thị Bích H1, sinh ngày: 20/4/1971. Trú tại: Thôn C, xã S1, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiêp: Trồng trọt. Có mặt tại phiên tòa.
- Những người làm chứng:
1. Ông Hồ Bá M, sinh ngày: 25/9/1950. Trú tại: Thôn L, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt tại phiên tòa.
2. Anh Trần Ngọc T, sinh ngày: 02/10/1983. Trú tại: Khối 7, thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 13 giờ, ngày 30/8/2019 Hồ Bá Q một mình điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 54P3 – 85B của gia đình đến ki ốt sữa chữa xe máy H của anh Hà Quốc N, sinh năm 1991, trú tại: Thôn L, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh để chơi. Tại đây, Q thấy ki ốt sữa chữa xe máy của anh N không có ai trông coi nên nảy sinh ý định tìm tài sản trong ki ốt để lấy trộm. Q quan sát thấy có một chiếc máy hàn nhãn hiệu MAXWELD ZX7-200 màu đỏ đen, để trên giá phụ tùng xe máy trong ki ốt. Q đã lén lút lấy trộm chiếc máy hàn cơ khí này đem về nhà cất dấu nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cho cá nhân.
Quá trình điều tra, cơ quan điều tra còn làm rõ được ngoài vụ trộm cắp tài sản nói trên Hồ Bá Q còn thực hiện một vụ trộm cắp tài sản trước đó. Cụ thể: Vào khoảng 14 giờ, ngày 02/10/2018 Hồ Bá Q điều khiển xe mô tô YAMAHA – NOUVO màu đen, biển kiểm soát 54P3 – 85B của gia đình đi từ thị trấn P, huyện H đến xã S2, huyện H. Khi đang đi trên đường H thuộc thôn M, xã S2, Q dừng lại vào cửa hàng tạp hóa của chị Hồ Thị Bích H1, sinh năm 1971, trú tại: Thôn C, xã S1, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh để mua thuốc lá. Khi vào quán thấy không có người trông coi nên Q đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Lúc này Q quan sát trong cửa hàng thấy có một chiếc hộp nhựa trong suốt để trên giá hàng, Q nghĩ trong chiếc hộp có tiền nên Q tiến đến chiếc hộp, thấy một chiếc ví ở bên trong, Q cầm chiếc ví lên mở ra lấy xấp tiền và đi ra ngoài. Khi Q vừa đi ra cửa thì gặp chị H1 đang đi vào, chị H1 hỏi Q mua gì, Q nói “Chị ơi cho em vay hai mươi nghìn đồng đổ xăng”, chị H1 trả lời không có. Q nhanh chóng đi ra xe nổ máy chạy theo đường H về hướng xã S, huyện H. Trên đường về Q dừng lại kiểm đếm số tiền vừa lấy trộm được là 4.000.000 đồng. Đến ngày hôm sau sợ bị phát hiện nên Q đã bỏ trốn vào miền nam, số tiền lấy trộm được Q tiêu xài cá nhân hết.
Tại bản kết luận định giá số 29/HĐĐG ngày 23/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân huyện H kết luận: Chiếc máy hàn que nhãn hiệu MAXWELD ZX7-200 màu đỏ đen trị giá 900.000 đồng.
* Về vật chứng vụ án: 01 Chiếc máy hàn que nhãn hiệu MAXWELD ZX7- 200 màu đỏ đen đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Hà Quốc N.
* Về trách nhiệm dân sự: Chị Hồ Thị Bích H1 yêu cầu bị cáo Hồ Bá Q phải bồi thường số tiền 4.000.000 đồng. Bị cáo chấp nhận bồi thường theo yêu cầu của bị hại nhưng hiện tại bị cáo chưa bồi thường được cho bị hại. Anh Hà Quốc N sau khi nhận lại chiếc máy hàn không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.
Tại bản Cáo trạng số: 64/CT-VKS-HS, ngày 31/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Hồ Bá Q về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Hồ Bá Q mức án từ 36 đến 42 tháng tù.
* Về trách nhiệm dân sự:
- Người bị hại anh Hà Quốc N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm nê đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
- Áp dụng các Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự chấp nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hài giữa bị cáo và người bị hại chị Hồ Thị Bích H1, buộc bị cáo Hồ Bá Q phải bồi thường cho chị Hồ Thị Bích H1 số tiền 4.000.000 đồng.
* Về vật chứng vụ án: 01 Chiếc máy hàn que nhãn hiệu MAXWELD ZX7- 200 màu đỏ đen. Cơ quan chức năng đã trả lại chủ sở hữu nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
Bị cáo Hồ Bá Q thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên Công an huyện H, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Hồ Bá Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại về thời gian, không gian, địa điểm phạm tội; vật chứng vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án; phù hợp với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Vì vậy có đủ cơ sở khẳng định hành vi Hồ Bá Q lén lút lấy số tiền 4.000.000 đồng tại cửa hàng tạp hóa của chị Hồ Thị Bích H1 và 01 chiếc máy hàn que MAXWELD ZX7- 200 màu đỏ đen trị giá 900.000 đồng của anh Hà Quốc N đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không có gì oan sai.
[3] Hànhvi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội rất táo bạo và liều lĩnh, thời gian phạm tội vào ban ngày, địa điểm là nơi nhiều người qua lại chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Hành vi đó làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội và gây hoang mang lo lắng cho mọi người.
Bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 15 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 03/3/2010 và bị Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xử phạt 05 năm tù về tội “Tàng trữ trái pháp chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 26/02/2018 nhưng đều chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cần xét xử bị cáo mức án thật nghiêm và phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Các tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
[5] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo cần căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo một phần.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Hà Quốc N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử miễn xét. Đối với người bị hại chị Hồ Thị Bích H1 yêu cầu bị cáo bồi hoàn số tiền 4.000.000 đồng. Tại hồ sơ và tại phiên tòa hôm nay bị cáo chấp nhận bồi thường. Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự, chấp nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa bị cáo và bị hại Hồ Thị Bích H1. Buộc bị cáo Hồ Bá Q phải bồi thường cho chị Hồ Thị Bích H1 số tiền 4.000.000 đồng.
[7] Về án phí: Bị cáo Hồ Bá Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về án phí dân sự sơ thẩm trước khi mở phiên tòa bị cáo Hồ Bá Q và bị hại Hồ Thị Bích H thỏa thuận việc bồi thường thiệt hại và đề nghị Tòa án chấp nhận nên không ai phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
-Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hồ Bá Q phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hồ Bá Q 42 (bốn hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam (Ngày 06/9/2019).
- Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa bị cáo Hồ Bá Q và người bị hại chị Hồ Thị Bích H1, buộc bị cáo Hồ Bá Q phải bồi thường cho người bị hại chị Hồ Thị Bích H1 số tiền 4.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và chị Hồ Thị Bích H1 có đơn yêu cầu thi hành án nếu bị cáo Hồ Bá Q không thi hành án thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo sự thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự . Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7,9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
-Về án phí: Buộc bị cáo Hồ Bá Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại chị Hồ Thị Bích H1 được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Người bị hại anh Hà Quốc N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15ngày kể từ ngày nhân được bản án chính hoặc ngày niêm yết bản án.
Bản án 56/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 56/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về