Bản án 56/2019/HSST ngày 17/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 56/2019/HSST NGÀY 17/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 17 tháng 8 năm 2019, tại Trường trung học cơ sở An Hòa, thuộc xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 56/2019/HSST ngày 24 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Thanh T, sinh năm 1995, tại tỉnh Long An, nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp 6, xã Phước Tuy, huyện Cần Đước, tỉnh Long An, chỗ ở hiện nay: Khu phố Gia Huỳnh, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hoá (học vấn) 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Thanh T và bà Mai Thanh G; vợ: Nguyễn Thị P; con: Có 01 người, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 17/6/2019, tạm giam ngày 20/6/2019; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Vũ Tiến Đ, sinh năm 1974. Trú tại: Khu phố G, thị trấn T, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

- Bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1965. Trú tại: Ô2/259, tổ 2, khu phố T, thị trấn G, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

Người làm chứng:

- Chị Lê Thị T, sinh năm 1989. Trú tại: Ấp G, xã H, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

- Chị Hà Thị Tú B, sinh năm 1971. Trú tại: Ấp T, xã K, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

Người chứng kiến:

- Anh Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1985. Trú tại: Ấp T, xã T, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ ngày 16/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh bắt quả tang Phạm Thanh T đang bán trái phép 01 bịch nylon trong suốt được bịt kín bên trong chứa tinh thể trong suốt (nghi là ma túy) cho Lê Thị Trân (tên gọi khác: Thùy, sinh năm 1999) với giá tiền 400.000 đồng tại khu vực gần quán Karaoke “The Voice” thuộc ấp An Bình, xã An Tịnh, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Thu giữ của T số tiền Việt Nam 600.000 đồng (trong đó có 400.000 đồng bán ma túy cho Trân), thu giữ của Trân 01 bịch nylon được bịt kín bên trong chứa tinh thể trong suốt và một số vật chứng có liên quan.

Qua điều tra thể hiện: Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 16/6/2019, Phạm Thanh T đang ở khu vực ấp Hòa Phú, xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh thì Lê Thị Trân điện thoại hỏi T mua 01 bịch chất ma túy với giá 400.000 đồng thì T đồng ý và hẹn Trân đến khu vực gần quán Karaoke “The Voice” thuộc ấp An Bình, xã An Tịnh, huyện Trảng Bàng để giao nhận chất ma túy. Sau đó, T điều khiển xe môtô biển số 70K3-3100 đến khu vực xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh gặp người tên “Đen” (không rõ họ tên, địa chỉ) mua 300.000 đồng chất ma túy đem đến điểm hẹn giao cho Trân và nhận số tiền 400.000 đồng thì bị bắt quả tang.

Ngoài ra, từ ngày 03/5/2019 đến ngày 15/6/2019, T còn mua ma túy của người tên “Đen”, bán trái phép cho Trân 03 lần, mỗi lần 01 bịch ma túy với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng. Lời khai của T phù hợp với lời khai của Trân.

Tại Kết luận giám định số 874/KL-KTHS ngày 17/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Tinh thể trong suốt bên trong 01 bịch nylon trong suốt được bịt kín (thu giữ của Trân, ký hiệu M) là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0739 gam.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Phạm Thanh T, Lê Thị Trân, Công an huyện Trảng Bàng đã ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Riêng người tên “Đen” đã bán chất ma túy cho T hiện không rõ họ tên, địa chỉ và chưa làm việc được; Cơ quan điều tra đang tiếp tục làm rõ để xử lý sau.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

Toàn bộ vật chứng đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng tạm giữ chờ xử lý.

Kê biên tài sản: T không có tài sản riêng nên không kê biên.

Tại bản Cáo trạng số 61/CT-VKSTrB ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Phạm Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Phạm Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ 08 năm đến 09 năm tù; đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung do bị cáo không có tài sản.

Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử lý toàn bộ vật chứng đã thu giữ trong vụ án theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi sai trái của bị cáo, bị cáo đã biết lỗi, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về nhà, bị cáo hứa sẽ không tái phạm và sẽ cố gắng lao động thật tốt để giúp ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, các vật chứng được thu giữ, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cụ thể, từ ngày 03/5/2019 đến ngày 16/6/2019, T đã bán 04 lần trái phép chất ma túy cho Trân. Trong đó ngày 16/6/2019, T bán cho Trân 0,0739 gam Methamphetamine thì bị bắt quả tang.

Từ căn cứ nêu trên xét thấy việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng đối với bị cáo là có căn cứ. Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Thanh T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, sức khoẻ và sự phát triển nòi giống của dân tộc nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ hành vi bị cáo là vi phạm pháp luật, là tệ nạn của xã hội, bị Nhà nước đặc biệt nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện vì mục đích lấy thu lợi bất chính. Cần xử lý thật nghiêm bị cáo bằng biện pháp cách ly ra khỏi xã hội để đảm bảo tính răn đe, giao dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Khi bị bắt bị cáo đã thành khẩn tự thú các lần phạm tội trước đó; Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải; Bị cáo có bà cố được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” nên được áp dụng điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt;

[6] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Do đó, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người lao động tự do, không nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng:

- Tiền Việt Nam 600.000 đồng. Trong đó có 400.000 đồng là tiền do bị cáo phạm tội mà có nên cần tuyên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước; 200.000 đồng là tiền của bị cáo, không có chứng cứ chứng minh do bị cáo phạm tội mà có nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen, số IMEI1: 357625/08/856634/7, số IMEI2: 357651/08/856634/3, bên trong có sim số 0901655415 (đã qua sử dụng); là phương tiện để bị cáo liên hệ mua bán trái phép chất ma túy nên cần tuyên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 bật lửa màu vàng - đỏ có chữ “viva” (đã qua sử dụng) là vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Xe mô tô biển số 70K3-3100, do bà Huỳnh Thị Mai đứng tên đăng ký sở hữu, là tài sản của anh Vũ Tiến Đức mua lại của bà Mai nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bàng đã làm rõ, xử lý trả lại cho anh Đức xong nên cần ghi nhận.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh T 09 (Chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/6/2019.

2/ Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tuyên tịch thu, tiêu hủy: 01 bật lửa màu vàng - đỏ có chữ “viva” (đã qua sử dụng).

- Tuyên trả lại cho bị cáo Phạm Thanh T: 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

- Tuyên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước:

+ Tiền Viêt Nam: 400.000 (Bốn trăm nghìn) đồng;

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen, số IMEI1: 357625/08/856634/7, số IMEI2: 357651/08/856634/3, bên trong có sim số 0901655415 (đã qua sử dụng).

- Ghi nhận anh Vũ Tiến Đức đã nhận lại tài sản là xe mô tô biển số 70K3- 3100.

3/ Án phí: Căn cứ vào Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Thanh T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HSST ngày 17/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về