Bản án 56/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 58/2019/TLST-HS, ngày 09 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 57/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN TRƯỜNG G (tên gọi khác: không), sinh năm 1966 tại huyện C, tỉnh Phú Thọ;

- Nơi ĐKHKTT: Thôn S 7, xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang;

- Chỗ ở hiện nay: Thôn Y, xã Y, huyện C, tỉnh Tuyên Quang;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/10;

- Họ tên cha: Nguyễn T, sinh năm 1941 (đã chết);

- Họ tên mẹ: Mai Thị B, sinh năm 1944;

- Anh chị, em ruột: Không có;

- Vợ: Phạm Thị T, sinh năm 1968, trú tại xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang và Vũ Thị N, sinh năm 1970, trú tại thôn Y, xã Y, huyện C, tỉnh Tuyên Quang (đều đã ly hôn);

- Con: có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2007;

* Tiền án, tiền sự: Không;

* Nhân thân:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 45/STHS ngày 24/11/1995 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt Nguyễn Trường G 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”;

- Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2010/HSST ngày 29/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, xử phạt Nguyễn Trường G 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Chấp hành xong các Quyết định của bản án ngày 17/10/2013);

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/8/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trường G, sinh năm 1966, trú tại thôn Y, xã Y, huyện C, tỉnh Tuyên Quang sử dụng ma túy từ năm 1999. Khoảng 10 giờ ngày 21/8/2019, G đón xe khách từ thôn Y xuống khu vực bến xe khách thành phố T, tỉnh Tuyên Quang mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Tại bến xe khách G gặp một người đàn ông không quen biết và hỏi mua được 02 gói ma túy với giá 400.000 đồng, người đàn ông cầm tiền và đưa cho G 02 gói nhỏ bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà. G cầm 02 gói ma túy cho vào trong túi quần đang mặc trên người và đón xe khách về nhà. Khoảng 12 giờ 15 phút cùng ngày khi đến khu vực đường quốc lộ 3B Hàm Yên – Chiêm Hóa thuộc thôn Chợ Bợ 1, xã Bình Xa, huyện Hàm Yên, G xuống xe khách, mục đích đi tìm chỗ vắng người để sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an huyện Hàm Yên bắt quả tang, thu giữ 02 gói nhỏ bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể Nguyễn Trường G, kết quả (+) Dương tính (Có chất ma tuý trong cơ thể). G khai nhận đã sử dụng ma túy vào ngày 20/8/2019 tại thôn Y, xã Y, huyện C, tỉnh Tuyên Quang.

Tại kết luận giám định số 602/GĐKTHS ngày 23/8/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Số chất bột màu trắng ngà trong phong bì dán kín thu giữ của Nguyễn Trường G gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine số thứ tự 09 thuộc danh mục IA, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; khối lượng 0,137g (Không phẩy một ba bảy gam).

Trước Cơ quan điều tra, Nguyễn Trường G đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ; Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 61/CT-VKSHY, ngày 08/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Nguyễn Trường G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Trường G tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình. Nội dung lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra.

Kết thúc phần hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Trường G theo tội danh, điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường G, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Trường G từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 21/8/2019). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,137g (Không phẩy một ba bảy gam) ma túy, loại Heroine trong phong bì niêm phong có chữ ký giáp lai của các thành phần tham gia và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang tại các mép gấp.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trường G đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ trên đã có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 12 giờ 30 phút ngày 21/8/2019, tại khu vực đường quốc lộ 3B Hàm Yên – Chiêm Hóa thuộc thôn Chợ Bợ 1, xã Bình Xa, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Tổ công tác Công an huyện Hàm Yên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Trường G đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,137g (Không phẩy một ba bảy gam) chất ma túy loại Heroine, số thứ tự 09 thuộc danh mục IA, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ, với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.

[2] Xét về tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến chế độ quản lý sử dụng các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh chống tệ nạn ma tuý, đồng thời còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là sai trái, là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Trước đó bị cáo có nhân thân xấu: Bản án hình sự sơ thẩm số 45/STHS ngày 24/11/1995 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”; Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2010/HSST ngày 29/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, xử phạt bị cáo 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên cần phải xét xử bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật và cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phục vụ công tác phòng chống tội phạm chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Trường G không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; Mẹ đẻ bị cáo là bà Mai Thị Bình có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương chiến thắng hạng Nhì nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Như vậy, HĐXX chấp nhận xử phạt bị cáo mức án khởi điểm như Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang đề nghị tại phiên toà là phù hợp, có căn cứ pháp luật.

[3] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo không có tài sản, thu nhập ổn định, không có công việc hay chức vụ gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông bán trái phép ma túy cho Nguyễn Trường G tại khu vực bến xe khách thành phố Tuyên Quang. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên đã áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định, nhưng không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể; ngoài lời khai duy nhất của bị cáo không có tài liệu khác chứng minh nên không có căn cứ xem xét, xử lý. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Trường G vào ngày 20/8/2019. Ngày 06/9/2019, Công an huyện Hàm Yên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 158/QĐ-XPVPHC với hình thức Cảnh cáo.

[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên đã thu giữ của Nguyễn Trường G 02 gói nhỏ bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất ma túy, loại Heroine, khối lượng là 0,137g (Không phẩy một ba bảy gam). Hội đồng xét xử xét thấy số ma túy trên là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trường G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trường G 01 (Một) năm 3 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 21/8/2019).

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,137g (Không phẩy một ba bảy gam) ma túy, loại Heroine trong phong bì niêm phong có chữ ký giáp lai của các thành phần tham gia và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang tại các mép gấp, bì niêm phong có dòng chữ: “BỘ CÔNG AN – CÔNG AN TỈNH TUYÊN QUANG”, tang vật vụ Nguyễn Trường G giám định ngày 21/8/2019. (Tình trạng như Biên bản giao vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Hàm Yên với Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, lập ngày 09/10/2019).

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Trường G phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

"Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì ng ười được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về