Bản án 56/2019/HNGĐ-ST ngày 16/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 56/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 16/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 154/2019/TLST-HNGĐ ngày 24/7/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/10/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị M, sinh năm 1987 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp N, xã L, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bị đơn: Ông Lê Văn K, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp N, xã L, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/7/2019 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Huỳnh Thị M trình bày: Vào năm 2005, bà M và ông Lê Văn K tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn và được UBND xã L, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 244, quyển 02, ngày 10/11/2005. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, ông K không lo làm ăn mà chỉ ăn nhậu, không làm tròn trách nhiệm làm chồng làm cha, còn dùng bạo lực gia đình đối với bà M. Sự chịu đựng có giới hạn nên đến tháng 4/2019 bà M đã dẫn con về nhà cha mẹ ruột ở, không còn chung sống với ông K từ tháng 04/2019 đến nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà M yêu cầu được ly hôn với ông K.

Thời gian chung sống vợ chồng có hai con chung là Lê Thị Ý V, sinh ngày 18/8/2006 và Lê Hữu T, sinh ngày 20/3/2010, hiện đang chung sống với bà M. Bà M yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung đến khi các cháu đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà M xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Lê Văn K, nhưng ông K không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà M, đồng thời ông K cũng không đến tham gia phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho ông Lê Văn K, nhưng ông K vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông K.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị M, nhận thấy bà M và ông K tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn và được UBND xã L, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 244, quyển 02 ngày 10/11/2005. Quan hệ hôn nhân của bà M và ông K không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một thời gian chung sống đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do bất đồng ý kiến, dẫn đến cãi vã, ông K không lo làm ăn và dùng bạo lực gia đình với bà M. Hiện bà M nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng với ông K nên có nguyện vọng ly hôn. Bà M và ông K đã không còn chung sống từ tháng 4/2019 đến nay. Hội đồng xét xử đã phân tích động viên bà M suy nghĩ lại, hàn gắn tình cảm vợ chồng với ông K, nhưng bà M vẫn cương quyết xin được ly hôn, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà M được ly hôn với ông K.

[3] Thời gian chung sống bà M và ông K có hai con chung là Lê Thị Ý V, sinh ngày 18/8/2006 và Lê Hữu T, sinh ngày 20/3/2010, hiện đang chung sống với bà M. Bà M yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung đến khi các cháu đủ 18 tuổi. không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con. Để đảm bảo cuộc sống của hai cháu không bị xáo trộn, để cháu phát tiển bình thường về tâm, sinh lý, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của hai cháu là muốn sống với mẹ, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được nuôi con của bà M, giao cháu V, cháu T cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Bà M hiện có việc làm, thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện nuôi con nên việc bà M không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Bà M xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Bà M xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Án phí sơ thẩm: Bà M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị M.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị M được ly hôn với ông Lê Văn K.

- Về con chung: Giao con chung là Lê Thị Ý V, sinh ngày 18/8/2006 và Lê Hữu T, sinh ngày 20/3/2010 cho bà Huỳnh Thị M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu V, cháu T đủ 18 tuổi. Ông Lê Văn K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Lê Văn K được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Ông Lê Văn K không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Lê Thị Ý V, Lê Hữu T của bà Huỳnh Thị M.

- Về tài sản chung: Bà Huỳnh Thị M xác nhận không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Bà Huỳnh Thị M xác nhận không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2/ Về án phí sơ thẩm: Bà Huỳnh Thị M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền ứng án phí bà M đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai số 0005826, ngày 23/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà M đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí.

Ông Lê Văn K không phải chịu án phí sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải Thi hành án có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HNGĐ-ST ngày 16/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:56/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về