Bản án 56/2019/HNGĐ-ST ngày 03/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 56/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 03 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 160/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2019/QĐXX-ST ngày 27 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1989; thường trú: Số 20A/5, khu phố Q, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương; tạm trú: Số 47, đường số 12, khu phố L, phường L, Quận 9, T phố Hồ Chí Minh. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2/ Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đức T, sinh năm 1987; thường trú: Số 20A/5, khu phố Q, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Bà Đặng Thị Lệ T, sinh năm 1965; thường trú: Số 47, đường số 2, khu phố L, phường L, Quận 9, T phố Hồ Chí Minh. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/02/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu T và anh Nguyễn Văn Đức T có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 02 năm thì tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, Quận 9, T phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 64/2013 quyển số 01 ngày 10/6/2013.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại 20A/5, khu phố Q, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương đến năm 2015 thì chuyển về 47, đường số 12, khu phố L, phường L, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh sinh sống cùng mẹ chị T. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, dẫn đến thường xuyên cãi nhau, anh T đánh chị T. Tháng 6/2018, vợ chồng sống ly thân, anh T chuyển về nhà riêng sinh sống. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa nên yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thành Đăng K, sinh ngày 09/3/2016 hiện nay đang sống cùng chị T. Sau khi ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng. Hiện nay, chị T đang làm công nhân tại Công ty TNHH điện tử Samsung HCMC CE COMPLEX, thu nhập trung bình từ 7 triệu đến 9 triệu/tháng.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thu T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị Nguyễn Thị Thu T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 22/3/2019, bị đơn anh Nguyễn Văn Đức T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất về điều kiện kết hôn, nơi ở của vợ chồng sau khi kết hôn. Anh T xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 5/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do công việc của anh T phải làm đêm, không có thời gian quan tâm vợ, con dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Anh T có đánh chị T 03 lần, trước tết nguyên đán năm 2019 vợ chồng cãi nhau anh T có dùng tay bóp hờ vào cổ chị T, chị T đã làm đơn gửi đến công an phường Long Bình giải quyết. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2018. Nay anh T xác định vẫn còn tình cảm với chị T, nhưng tình trạng hôn nhân không thể cứu vãn được nữa. Tuy nhiên, do anh T là người theo Đạo Thiên Chúa nên không đồng ý ly hôn với chị T.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thành Đăng K, sinh ngày 09/3/2016. Khi ly hôn, anh T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Hiện nay, anh T làm nghề rửa cát và chạy xe múc cát thu nhập trung bình từ 10 triệu đến 15 triệu đồng/tháng. Thời gian làm việc không cố định, khi nào có việc thì đi làm không kể ngày, đêm.

Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn Đức T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Anh Nguyễn Văn Đức T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 26/3/2019, người làm chứng bà Đặng Thị Lệ T trình bày:

Bà T là mẹ ruột của chị Nguyễn Thị Thu T, anh Nguyễn Văn Đức T là con rể. Sau khi kết hôn, vợ chồng T sống tại nhà của T ở phường Q, thị xã D, tỉnh Bình Dương được 01 thời gian thì chuyển đến sinh sống cùng bà ở 47, đường số 2, khu phố L, phường L, Quận 9, T phố Hồ Chí Minh. Quá trình chung sống, vợ chồng T thường xuyên xảy ra cãi nhau, nguyên nhân là do T đi làm nhưng không đưa tiền về phụ vợ nuôi con; không quan tâm đến vợ con; trong lúc vợ chồng cãi nhau, T còn đánh T. Đến khoảng tháng 6/2018, vợ chồng sống ly thân. Nay T làm đơn ly hôn thì tôi không có ý kiến gì. Thời gian T sống cùng tôi, tôi chỉ biết T làm nghề rửa cát, lúc làm ngày, lúc làm đêm, thời gian không cố định.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, các đương sự đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do nên Tòa án căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào ngày 13/6/2019 và 03/7/2019 nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu T và anh Nguyễn Văn Đức T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, Quận 9, T phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 64/2013 quyển số 01 ngày 10/6/2013 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Chị Nguyễn Thị Thu T và anh Nguyễn Văn Đức T đều xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T đi làm đêm không có thời gian quan tâm đến vợ, con; vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, anh T đánh chị T. Căn cứ vào lời khai của người làm chứng và Công văn số 172/CV-CAP ngày 10/4/2019 của Công an phường L, Quận 9, T phố Hồ Chí Minh thì trong quá trình chung sống chị T và anh T mâu thuẫn, anh T có đánh chị T. Quá trình tố tụng, Tòa án đã triệu tập anh T đến Tòa án để hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh T không đến, đồng thời chị T có đơn từ chối hòa giải. Căn cứ vào lời khai của các đương sự và người làm chứng có cơ sở xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng và cả hai đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị T là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thành Đăng K, sinh ngày 09/3/2016. Khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét về điều kiện nuôi dưỡng thì anh T, chị T có điều kiện ngang nhau trong việc nuôi dưỡng cháu K. Tuy nhiên, hiện nay cháu K còn nhỏ cần sự chăm sóc nhiều hơn, bên cạnh đó anh T làm nghề rửa cát, lái xe múc cát thời gian không cố định nên sẽ ảnh hưởng đến việc chăm sóc cháu K. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình, tiếp tục giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

[2.3] Về cấp dưỡng: Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của chị T nên Tòa án ghi nhận.

[2.4] Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Ý kiến của Viện kiểm sát phù hợp với quan điểm của Tòa án nên chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu T phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu T về tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Nguyễn Văn Đức T.

1.1 Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu T được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đức T (Giấy chứng nhận kết hôn số 64/2013 quyển số 01 ngày 10/6/2013 do Ủy ban nhân dân phường L, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh cấp).

1.2 Về con chung: Anh Nguyễn Văn Đức T giao con chung tên Nguyễn Thành Đăng K, sinh ngày 09/3/2016 cho chị Nguyễn Thị Thu T tiếp tục nuôi dưỡng.

Sau ly hôn, chị Nguyễn Thị Thu T và anh Nguyễn Văn Đức T đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

1.3 Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Thu T không yêu cầu anh Nguyễn Văn Đức T cấp dưỡng nuôi con.

1.4 Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0028154 ngày 11/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

462
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HNGĐ-ST ngày 03/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:56/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về