Bản án 56/2018/HNGĐ-ST ngày 07/08/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 56/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 07 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 255/2018/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2018 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2018/QĐST-HNGĐ ngày 23/7/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị P, sinh năm 1984, cư trú tại: Tổ 6, khu 1, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Trần Khánh K, sinh năm 1974, cư trú tại: Tổ 21, khu 2B, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở hiện tại: Tổ 4, khu 8, phường L, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa không có lí do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nội dung vụ án theo như nguyên đơn chị Hoàng Thị P trình bày:

Về tình cảm: Chị P và anh Trần Khánh K kết hôn ngày 14/4/2016, đăng ký kết hôn tại UBND phường C, thành phố H. Vợ chồng kết hôn tự nguyện có thời gian tìm hiểu nhau là 01 năm. Trước khi kết hôn anh K đã có một lần kết hôn (đã ly hôn). Sau khi kết hôn vợ chồng chuyển về cư trú cùng mẹ đẻ anh K là bà Lê Thị B tại địa chỉ tổ 4, khu 8, phường L, thành phố H. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn khoảng 03 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh K ham chơi cờ bạc, dẫn đến nợ nần nhiều, các chủ nợ liên tục đến nhà đòi nợ. Mặt khác, anh K không chịu tu chí làm ăn và không có trách nhiệm, không quan tâm đến gia đình. Một mình chị P phải lo kinh tế cho gia đình và phải trả nợ cho anh K. Anh K còn thường xuyên kiếm cớ để gây sự, chửi bới, đánh đập chị P. Ngày 20/5/2017, do không thể chịu đựng cuộc sống chung vợ chồng với anh K nên chị P đã chuyển nhà bố mẹ đẻ tại địa chỉ tổ 6, khu 1, phường C, thành phố H để sinh sống. Từ đó, vợ chồng ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị P nhận thấy không còn tình cảm với anh K, mâu thuẫn vợ chồng đã rất trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh K.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng không nợ chung ai, không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tại phiên tòa là Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự khi giải quyết vụ án. Về quan điểm giải quyết vụ án đại diện Viện kiểm sát có quan điểm mâu thuẫn vợ chồng giữa chị P và anh K là trầm trọng nên đề nghị cho vợ chồng ly hôn.

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của đương sự, đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về thủ tục tố tụng: Đây là tranh chấp ly hôn giữa hai đương sự cư trú trên địa bàn thành phố H, vì vậy Tòa án nhân dân thành phố H thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền. Phía bị đơn là anh Trần Khánh K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, mặc dù đã nhận được giấy triệu tập nhưng anh K không đến Toà án làm việc. Vì vậy, Tòa án không thể tiến hành hòa giải theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử anh K cũng vắng mặt không có lý do nên phiên tòa ngày 23/7/2018 đã phải hoãn, lần mở lại phiên tòa này anh K vẫn vắng mặt không có lý do nên việc Tòa án đưa vụ án ra xét xử hôm nay vắng mặt bị đơn anh Trần Khánh K là đúng quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, K đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bị đơn anh Trần Khánh K đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do. Vì thế, Tòa án không thể ghi nhận được quan điểm của anh K về yêu cầu khởi kiện của chị P và không tiến hành hòa giải được. Việc vắng mặt của anh K thể hiện anh K không có thiện chí tham gia hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng và còn có nghĩa là anh K đã tự từ bỏ quyền được bác bỏ một phần hay toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị P, từ bỏ quyền được tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

Qua các trình bày của chị P nhận thấy hôn nhân giữa chị Hoàng Thị P và anh Trần Khánh K là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Cuộc sống chung vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân do anh K ham chơi cờ bạc, dẫn đến nợ nần nhiều, các chủ nợ liên tục đến nhà đòi nợ, anh K không chịu tu chí làm ăn và không có trách nhiệm, không quan tâm đến gia đình để một mình chị P phải lo kinh tế cho gia đình và phải trả nợ cho anh K. Anh K còn thường xuyên kiếm cớ để gây sự, chửi bới, đánh đập chị P. Theo cung cấp của tổ dân phố khu 4, phường L - nơi vợ chồng chung sống thì từ cuối năm 2016 đến nay, hai vợ chồng P - K sống ly thân không còn quan tâm đến nhau. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị P và anh K đã trầm trọng, vợ chồng không còn thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị P.

[2] Về con chung: Chị P và anh K không có con chung. Vì vậy, K đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[3] Về tài sản chung: Vợ chồng không nợ chung ai, không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết về phần tài sản nên không xem xét vấn đề tài sản chung.

[4] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Hoàng Thị P đối với anh Trần Khánh K.

Về án phí: Chị Hoàng Thị P phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0002515 ngày 20/4/2018 của chi cục thi hành án dân sự TP H.

Án xử sơ thẩm công khai, báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2018/HNGĐ-ST ngày 07/08/2018 về ly hôn

Số hiệu:56/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về