TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 56/2017/HSST NGÀY 20/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20/7/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2017/HSST ngày 26 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo:
Bùi Hồng Q, sinh năm 1989. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn H, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình; số CMND: 151697xxx; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Bùi Mạnh D và bà Đỗ Thị P; vợ Vì Thị Đ, bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án: Bị cáo có 01 tiền án, bản án hình sợ sơ thẩm số 52/2016/HSST ngày 21/7/2016 của Tòa án nhân dân (viết tắt TAND) huyện Hưng Hà xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/01/2017; tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 15/4/2017, đến ngày 18/4/2017 chuyển tạm giam, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà (bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ 50 phút ngày 15/4/2017, Bùi Hồng Q, đi từ nhà đến khu vực bến xe thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình gặp và mua 01 gói ma túy (Hêrôin) của một người đàn ông không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Q cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải rồi đi về nhà. Khi về đến đoạn đường 39A thuộc địa phận thôn Khánh Mỹ, xã Phúc Khánh, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình thì Q bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng và tài sản Cơ quan Công an quản lý của Q gồm: 01 gói giấy tráng kim, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, Bùi Hồng Q khai nhận là gói ma túy của Q mua về để sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng và 60.000 đồng. Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong 01 gói ma túy trên trước sự chứng kiến của những người làm chứng. Tại Bản kết luận giám định số 129/KLGĐ-PC 54 ngày 17/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận về vật chứng quản lý của Q theo Quyết định trưng cầu giám định của Công an huyện Hưng Hà: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại heroine (Hêrôin) có trọng lượng 0,3062 gam. Heroine STT: 20, danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ.
Tại phiên toà, bị cáo Q khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 15/4/2017, bị cáo đang ở nhà thì có bạn là Đạt đến rủ bị cáo đi mua ma túy về sử dụng vì bị cáo và Đạt đều mắc nghiện ma túy, tên đầy đủ của Đạt cũng như địa chỉ của Đạt ở đâu bị cáo không biết. Bị cáo và Đạt đi xe máy của Đạt lên thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, đến khu vực cây xăng thuộc địa phận thị trấn Hưng Nhân thì Đạt đưa cho bị cáo 200.000 đồng, bị cáo cầm tiền và lấy xe máy của Đạt đi lên khu vực bến xe thị trấn Hưng Nhân thì gặp một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ ở đâu, bị cáo hỏi và mua của người đàn ông này 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng, trước đó bị cáo đã mua ma túy của người đàn ông nay một vài lần. Sau khi mua được ma túy, bị cáo và Đạt đi đến một nghĩa trang, không rõ thuộc phận của địa phương nào, tại đây bị cáo và Đạt đã lấy một nửa số ma túy vừa mua được để sử dụng, số còn lại bị cáo gói lại cầm ở tay phải cùng Đạt đi về nhà, Đạt chở bị cáo đến ngã ba phố Lẻ thì bị cáo xuống xe để mua bao thuốc thì bị Công an huyện Hưng Hà kiểm tra và quản lý số ma túy còn lại bị cáo đang cầm ở tay phải.
Bản cáo trạng số 48/KSĐT ngày 25/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố Bùi Hồng Q ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự (viết tắt BLHS). Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 33 của BLHS, phạt bị cáo Q từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Lời khai của bị cáo Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và còn phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà lập hồi 15 giờ 30 phút ngày 15/4/2017 tại trụ sở UBND xã Phúc Khánh, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (bút lục số 44 đến 45); Biên bản quản lý và niêm phong vật chứng ngày 15/4/2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà (bút lục số 25); lời khai của người làm chứng là ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1965, trú quán: Thôn S, xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình và bà Trần Thị Thanh D, sinh năm 1957, trú quán: Thôn K, xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình (bút lục số 65 đến 72).
[3] Như vậy có đủ cơ sở kết luận vào khoảng 14 giờ 50‟ ngày 15/4/2017, tại đoạn đường 39A, thuộc địa phận thôn Khánh Mỹ, xã Phúc Khánh, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, Bùi Hồng Q đã có hành vi tàng trữ 0,3062gam ma túy (loại Heroine), mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Q đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Q thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy và làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nhân thân xấu, năm 2013 bị cáo bị TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”, bị cáo đã được đương nhiên xóa án tích; ngày 21/7/2016 bị cáo bị TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là „tái phạm” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của BLHS. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù theo quy định của khung hình phạt, cách ly bị cáo khỏi cuộc sống ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính chất răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội, tuy nhiên tại phiên toà cũng như tại giai đoạn điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, nên Hội đồng xét xử cũng xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS.
[5] Về vật chứng của vụ án: Số ma túy Cơ quan Điều tra quản lý của bị cáo Q, sau khi được giám định, số còn lại được niêm phong trong phong bì số 129/KLGĐ-PC54 ngày 17/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, cần tịch thu để tiêu huỷ; 01 điện thoại di động SamSung đã cũ và số tiền 60.000 đồng quản lý của bị cáo Q, xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần tiếp tục quản lý số tiền 60.000 đồng để bảo đảm việc thi hành án về án phí.
[6] Về nguồn gốc số tiền mua ma túy, bị cáo Q khai do bạn tên là Đạt đưa cho bị cáo, bị cáo không biết họ tên đầy đủ của Đạt cũng như địa chỉ của Đạt ở đâu; về số ma túy, bị cáo Q khai mua của một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ ở đâu tại khu vực bến xe thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình không xác định được con người cụ thể đã đưa tiền và người đã bán ma túy cho Q nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án là phù hợp
[7] Về án phí: Bị cáo Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[ Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Bùi Hồng Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 33 của Bộ luật Hình sự. Phạt bị cáo Q 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 15/4/2017.
2. Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự và Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.1 Tịch thu để tiêu huỷ số ma túy là vật chứng của vụ án được niêm phong trong phong bì số 129/KLGĐ-PC54 ngày 17/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.
2.2 Trả lại bị cáo Bùi Hồng Q 01 điện thoại di động SAMSUNG màu trắng đã cũ và số tiền 60.000đ (Sáu mươi nghìn đồng), nhưng tiếp tục quản lý số tiền 60.000 đồng để bảo đảm việc thi hành án về án phí.
Toàn bộ vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý.
3. Bị cáo Bùi Hồng Q phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo Bùi Hồng Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 56/2017/HSST ngày 20/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 56/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về