Bản án 55/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH B

BẢN ÁN 55/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 985/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 212/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh naêm: 1991 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 8, KV2, Phường T, Tp. Q, Tỉnh B.

2. Bị đơn: Anh Hồ Văn V, sinh naêm: 1987 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 8, KV2, Phường T, Tp. Q, Tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Hồ Văn V đăng ký kết hôn số: 105/2011 ngày 08/9/2011 tại UBND phường T, thành phố Q, tỉnh B, tự nguyện, có tìm hiểu thời gian ngắn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh V ăn chơi cờ bạc và còn ngoại tình. Năm 2017 chị đã làm đơn xin ly hôn anh V. Sau đó anh V có hứa sửa chữa nên chị rút đơn. Sau khi rút đơn về thì tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Anh V vẫn tính nào tật đó không thay đổi. Đến ngày 30/4/2020 vợ chồng mâu thuẫn gay gắt và tự sống ly thân đến nay phần ai nấy sống không ai quan tâm đến ai.

Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị không thể nào chung sống với anh V được nữa nên chị quyết định xin ly hôn anh V để ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Vợ chồng chung sống có hai con chung là: Hồ Nguyễn Diễm Q, sinh ngày: 22/10/2011 và Hồ Nguyễn Quốc B, sinh ngày: 09/5/2014. Sức khỏe các cháu bình thường, hiện nay các cháu đang ở với chị. Khi ly hôn chị xin nuôi hai con chung và đồng ý anh V cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng 5.000.000đồng.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự giải quyết không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại bản khai ngày 02/11/2020 bị đơn anh Hồ Văn V trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị T đăng ký kết hôn số: 105/2011 ngày 08/9/2011 tại UBND phường T, thành phố Q, tỉnh B, tự nguyện, có tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Vì con anh mong muốn vợ chồng hàn gắn tình cảm với nhau nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng chung sống có hai con chung là: Hồ Nguyễn Diễm Q, sinh ngày: 22/10/2011 và Hồ Nguyễn Quốc B, sinh ngày: 09/5/2014. Sức khỏe các cháu bình thường. Nếu Tòa xử cho ly hôn thì anh đồng ý chị T nuôi hai con chung và anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng 5.000.000đồng.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự giải quyết không yêu cầu Tòa giải quyết.

+ Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Q phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể t khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn không chấp hành việc có mặt theo giấy triệu tập của Tòa.

+Về quan điểm gi i quyết vụ án đề nghị:

-Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Hồ Văn V.

-Về con chung: Chị T được nuôi 02 con chung là: Hồ Nguyễn Diễm Q, sinh ngày: 22/10/2011 và Hồ Nguyễn Quốc B, sinh ngày: 09/5/2014.

Anh Hồ Văn V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng 5.000.000đồng.

- Về tài sản chung: Tòa không giải quyết.

- Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Chị T phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Hồ Văn V - là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Hồ Văn V.

[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Hồ Văn V là hôn nhân hợp pháp. Chị T khai rằng hạnh phúc gia ñình ñoå vôõ laø do anh V ăn chơi, cờ bạc và ngoại tình không quan tâm đến vợ con. Chị đã nhiều lần khuyên bảo anh V và cố gắng chịu đựng để gia đình yên ổn làm ăn nhưng anh V vẫn tính nào tật đó không sửa chữa mà mâu thuẫn ngày càng gay gắt hơn. Nay chị không thể nào chung sống với anh V được nữa nên chị yeâu caàu ñöôïc ly hoân anh V. Còn bị đơn anh V tuy không đồng ý ly hôn nhưng anh không đưa ra được biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hơn nữa quá trình giaûi quyeát vuï aùn anh V coá tình vaéng maët không đến Tòa. Toøa ñaõ tạo điều kiện hòa giải để chị T và anh V haøn gaén tình caûm vôï choàng nhưng anh V vẫn coá tình vaéng maët.

Xét thấy hôn nhân giữa chị T và anh V không còn thương yêu, quý trọng, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống vợ chồng. Do đó hôn nhân của anh, chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị T và anh V có 02 con chung là: Hồ Nguyễn Diễm Q, sinh ngày: 22/10/2011 và Hồ Nguyễn Quốc B, sinh ngày: 09/5/2014. Sức khỏe các cháu bình thường và hiện nay đang ở với chị T. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên Tòa chị T xin được nuôi hai con chung và đồng ý anh V cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng 5.000.000đồng. Tại bản khai ngày 02/11/2020 anh V khai rằng nếu Tòa xử cho ly hôn thì anh cũng đồng ý chị T nuôi 02 con chung và anh đồng ý cấp dưỡng cho chị T nuôi hai con hàng tháng mỗi tháng 5.000.000đồng.

Xét thấy: Hiện nay hai con chung đang ở ổn định với chị T và ăn học bình thường. Cháu Q có nguyện vọng muốn ở với chị T. Riêng cháu B còn nhỏ dưới 07 tuổi phải cần sự chăm sóc tỉ mỉ của người mẹ và hai cháu đã quen với điều kiện, môi trường sống và được nuôi dưỡng, chăm sóc của chị T t nhỏ. Xuất phát t lợi ích mọi mặt của các cháu. Do đó yêu cầu nuôi hai con chung của chị T và được anh V đồng ý là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được HĐXX chấp nhận.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị T đồng ý anh V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng 5.000.000đồng và được anh V đồng ý. Đây là sự tự nguyện của các bên đương sự và cũng phù hợp với quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được HĐXX chấp nhận.

[3] Về tài sản chung: Chị T và anh V không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

[4] Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Anh Hồ Văn V phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quộc Hội.

Ý kiến đề nghị của đại diện viện kiểm sát về nội dung vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quộc Hội. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T ly hôn anh Hồ Văn V.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao hai con chung là: Hồ Nguyễn Diễm Q, sinh ngày: 22/10/2011 và Hồ Nguyễn Quốc B, sinh ngày: 09/5/2014 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Hồ Văn V có nghĩa vụ đóng góp nuôi con với chị Nguyễn Thị T số tiền là 5.000.000đồng/tháng (Năm triệu đồng một tháng). Thời gian cấp dưỡng: T tháng 01/2021 trở đi cho đến khi cháu Q và cháu B thành niên (đủ 18 tuổi).

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung, không bên nào được ngăn c n..

3. Về tài sản chung: Chị T và anh V không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

4. Về án phí:

- Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được tr vào tạm ứng án phí theo biên lai số 0002944 ngày 02/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q. Chị T đã nộp đủ án phí.

- Anh Hồ Văn V phải nộp 300.000đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể t ngày tuyên án. Riêng anh Hồ Văn V vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính t ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:55/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về