Bản án 55/2020/HS-ST ngày 17/02/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 55/2020/HS-ST NGÀY 17/02/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 17/02/2020 , tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 391/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 514/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ tên: Nguyễn Trọng M, sinh năm 19Xx; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: M Tựa.

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn Non Nông, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 04/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Trọng Hùng và Con bà: Nguyễn Thị Tựa; Có vợ: Nguyễn Thị ThUết; Con: Có 03 con; Con lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2018; T án, T sự: Chưa.

Nhân thân:

- Ngày 19/6/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù giam về tội Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật.

- Ngày 09/01/2014, bị Công an huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc.

Bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/4/2018; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 01, Công an thành phố Hà Nội; Số giam 2162Q1/21.

2. Họ tên: Nguyễn Trọng Đ, sinh năm 19xx; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Đ “Tựa” Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Non Nông, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, Hà Nội; Con ông: Nguyễn Trọng Hùng và con bà: Nguyễn Thị Tựa ; Có Vợ: Hoàng Thị Vân ( Đã ly hôn); Con: Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012; T án, T sự: Chưa.

Bị bắt ngày 13/4/2018, hiện đang tạm giam tại: Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội; Số giam: 2120Q1/4.

3. Họ tên: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 19Xx; Giới tính: Nam.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:

10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Non Nông, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Nguyễn Văn Ký và Con bà: Nguyễn Thị Đoàn; Vợ, con: Chưa; T án, T sự: Chưa.

Nhân thân:

- Ngày 24/3/2008, Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản.

Bị bắt ngày 13/4/2018, hiện đang tạm giam tại: Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 2123Q1/24.

4. Họ tên: Đặng Trần Ng, sinh năm 19xx; Giới tính: Nam.

Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Non Nông, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Đặng Trần Hồng (Đã chết) và con bà: Nguyễn Thị V; Vợ, con: Chưa.

Bị bắt ngày 13/4/2018, hiện đang tạm giam tại: Trại tạm giam số1, Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 2122Q1/7.

5. Họ tên: Nguyễn Khả D, sinh năm 19Xx; Giới tính: Nam.

Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Nơi cư trú: Thôn Non Nông, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Nguyễn Khả Yết và Con bà: Đàm Thị Khiết; Có Vợ: Đặng Thị Vân Anh; Con: Có 01 con sinh năm 2018; T án, T sự: Chưa.

Nhân thân:

- Ngày 24/3/2008, Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản.

Bị bắt ngày 13/4/2018, hiện đang tạm giam tại: Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 2121Q1/9.

6. Họ tên: Nguyễn Cửu Kh, sinh năm 19xX; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Non Nông, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Nguyễn Cửu Điệp và con bà: Nguyễn Thị Yến; Có Vợ: Đỗ Thị Lan; Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; T án, T sự: Chưa.

Bị bắt ngày 13/4/2018, hiện đang tạm giam tại: Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 2124Q1/8.

7. Họ tên: Dương Đắc Q, sinh năm 1979; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Lam Điền, xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Dương Đoàn Trọng và con bà: Trịnh Thị Yên; Có Vợ: Trần Thị Thanh Hoa; Con: Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2013; T án, T sự: Chưa.

Nhân thân:

+ Ngày 26/5/2011, Công an huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc.

Bị bắt ngày 13/4/2018, hiện đang tạm giam tại: Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 2125Q1/9.

8. Họ tên: Hoàng Ng U ( Hiển), sinh năm 19xX; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Hiển; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Cao Sơn, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Hoàng Quý Bằng và con bà: Trần Thị Vũ; Có vợ: Trịnh Thị Hoa; Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2012; T án, T sự: Chưa.

Đầu thú ngày 14/5/2018, hiện đang tạm giam tại: Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 2443Q1/22B.

9. Họ tên: Nguyễn Văn K, sinh năm 19Xx; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Non Nông, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Nguyễn Văn Thịnh và con bà: Vũ Thị Lơ; Có Vợ: Đào Thị Nhung; Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2009; T án, T sự: Chưa.

Nhân thân:

-Ngày 24/3/2008, Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội: Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Bị cáo bị trU nã.

Ra đầu thú ngày 09/01/2019, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/01/2019 (Có mặt tại phiên tòa).

10. Họ tên: Trịnh Xuân T, sinh năm 19Xx; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Cả, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; T án, T sự: Chưa; Con ông Trịnh Xuân Sin (Đã chết) và con bà Trương Thị Viết; Có Vợ: Nguyễn Thị Dáng; Bị cáo có 02: Con sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2020; T án, T: Chưa.

Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú.

11. Họ tên: Nguyễn DU Q, sinh năm 19XX; Giới tính: Nam.

Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo:

Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Nơi cư trú: Thôn Yên Trình, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông Nguyễn DU Trường (Đã chết) và con bà Phùng Thị Hà ; Có Vợ: Trịnh Thị Túc; Con: Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2006; T sự: Chưa.

T án: 02 T án (Trong đó 01 T án chưa Đ xóa) + Ngày 13/6/1998: TAND huyện Chương Mỹ, Hà Nội xử phạt 09 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản công dân (Bị cáo nộp T án phí ngày 05/9/2019).

+ Ngày 31/7/1998: TAND huyện Chương Mỹ, Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội: Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án là 15 tháng tù. (Bản án này đã chấp hành xong).

Bị cáo phạm tội lần này là tái phạm.

Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú.

12. Họ tên: Nguyễn Văn V, sinh năm 1971; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Trình độ học vấn: 4/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Khu Hoà Sơn, Thị trấn Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Nguyễn Văn Vấn và con bà Trịnh Thị Thoa; Có Vợ Hà Thị Đàn; Con: Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2011; T án, T sự: Chưa.

Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú.

13. Họ tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 19XX; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo:

Thiên Chúa Giáo; Trình độ học vấn: 4/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Nơi cư trú: Thôn Chúc Lý, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Nguyễn Văn Vấn (Đã chết) và con bà: Trịnh Thị Thoa; Có Vợ: Nguyễn Thị Oanh; Con: Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2011; T án, T sự: Chưa.

Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú.

14. Họ tên: Trịnh Xuân K, sinh năm 19XX; Giới tính: Nam.

Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Cả, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Trịnh Xuân Tân và con bà Trần Thị Nhung; Có Vợ: Đào Thị Thu Vân; Con: Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2017.

T án, T sự: Chưa.

Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

15. Họ tên: Trần Đắc Đ, Tên gọi khác: Đ Cu Ba, sinh năm 19Xx; Nơi cư trú: Thôn Cầu, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; ; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trần Đắc Luật và con bà: Nguyễn Thị Cùng; Vợ: Trịnh Thị Chinh; Con: Bị cáo có 01 con sinh năm 2017; T án, T sự: Chưa.

Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

16. Họ tên: Trần Đắc Ngh, sinh năm 19Xx; Giới tính: Nam.

Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Cầu, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông: Trần Đắc ChUên và con bà: Nguyễn Thị Vân; Có Vợ: Trương Ngọc Tươi; Con: Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2018.

T án, T sự: Chưa.

Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

17. Họ tên: Trần Đắc M, sinh năm 19xx; Giới tính: Nam.

Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Nơi cư trú: Thôn Cầu, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông Trần Đắc lý và con bà Lê Thị Nhì; Vợ, con: Chưa. T án, T sự: Chưa.

Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

18. Họ tên: Đặng Đình T, sinh năm 1990; Giới tính: Nam.

Tên gọi khác: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Cầu, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; Con ông Đặng Đình Năm và con bà Nguyễn Thị Đông; Vợ, con: Chưa. T án, T sự: Chưa.

Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo trong vụ cướp tài sản:

Nguyễn Phương Nam, luật sư, Văn phòng luật sư số 10, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Bào chữ cho bị cáo Dương Đắc Q.

Ông Tạ Văn Phú, luật sư, Công ty luật ánh sáng việt, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trọng Đ (Đ Tựa).

Ông Hoàng Ngọc Thanh Bình, luật sư, Công ty luật Bảo Thiên, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Bào chữa cho các bị cáo Hoàng Ng U; Nguyễn Văn K.

Lê Thị Bảo Yến, luật sư, Công ty luật Bảo Thiên, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Cửu Kh; Nguyễn Khả D.

Đinh Thị Kim Thoa, luật sư, Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên Bảo Thiên, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Trọng M; Nguyễn Văn Đ; Đặng Trần Ng.

Bị hại:

1. Nguyễn DU Q, sinh năm 1977.

Nơi cư trú: Thôn Yên Trình, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.

2. Trịnh Xuân T, sinh năm 19XX.

Nơi cư trú: Thôn Cả, xã Ngọc Hoà, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.

Người có Quyền lợi, Ngh vụ liên quan: Bà Trịnh Thị Thoa, sinh năm 1947.

Trú tại: Thôn Chúc Lý, xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.

Người làm chứng:

1. Ông Trịnh Xuân Thịnh, sinh năm 1954 (Bố vợ bị cáo Q).

Trú tại: Thôn Cả, xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.

2. Đặng Đình Thịnh, sinh năm 1983.

Trú tại: Thôn Đại Ơn, xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án Đ tóm tắt như sau: Trên cơ sở kết quả điều tra, đã xác định Đ như sau:

Khoảng 16h00 ngày 10/03/2018, các bị cáo Nguyễn Văn V; Nguyễn DU Q; Trịnh Xuân T; Trịnh Xuân K; Trần Đắc Đ; Trần Đắc Ngh; Trần Đắc M; Đặng Đình T; Trần Đắc T; Cùng các đối tượng Đỗ M Trường; Nguyễn Văn Hải đã bỏ trốn (Tất cả đều trú tại xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội) rủ nhau cùng đến nhà bà Trịnh Thị Thoa (Sinh năm 1947, ở thôn Chúc Lý, xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội) để đánh bạc dưới hình thức đánh sóc đĩa ăn T. Đến nơi thấy bà Thoa không có nhà, bị cáo T tự ý vào chạn bát của nhà bà Thoa lấy bát, đĩa, sau đó lấy 04 Q bài hình tròn Đ cắt ra từ vỏ bao thuốc lá Vinataba, mỗi Q có 01 mặt màu vàng và 01 mặt màu trắng, tất cả thống nhất cách chơi như sau: Người xóc cái dùng 01 bộ bát, đĩa sứ để xóc cái, bên trong là 04 Q bài, mỗi ván đánh bạc người xóc cái sẽ dùng bát đĩa xóc 04 Q bài bên trong rồi đặt bát, đĩa xuống chiếu nhưng chưa mở bát, mỗi con bạc sẽ đặt T từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng vào cửa chẵn ở bên phải của người xóc cái (Có 02 Q bài hoặc 04 Q bào cùng màu) hoặc cửa lẻ ở bên tay trái nguồi xóc cái (Có 01 hoặc 03 Q bài cùng màu). Sau khi các con bạc đặt cửa chẵn, lẻ xong, người xóc cái sẽ tùy vào lượng T chẵn, lẻ chênh lệch để bán chẵn hoặc bán lẻ để các con bạc tiếp tục đặt T vào cửa chẵn hoặc cửa lẻ; sau khi đặt xong, người xóc cái sẽ mở bát xem chẵn hay lẻ, nếu kết quả là chẵn thì người đặt cửa chẵn thắng và nhận lại gấp đôi số T đã đặt bao gồm cả T đặt cược, người đặt cửa lẻ thua và thua hết số T đã đặt, nếu kết quả là lẻ thì người đặt cửa lẻ thắng và nhận lại gấp đôi số T đã đặt bao gồm cả T đặt cược, người đặt cửa chẵn thua và thua hết số T đã đặt. Khi đánh bạc các đối tượng tự ngUện đóng mỗi người từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng, Đ tất cả 700.000 đồng để sau khi đánh bạc xong sẽ đưa cho chủ nhà, lúc này chủ nhà là bà Trịnh Thị Thoa đang đi lễ nhà thờ, nhà bà Thoa không có ai ở nhà. Lúc này có 01 đối tượng nam giới khoảng 45-50 tuổi (Hiện chưa xác định Đ nhân thân lai lịch) cũng có mặt tại nhà bà Thoa, nhận cầm cố xe máy Honda Wave Biển kiểm soát 29X1-200.00 của bị cáo T, cho bị cáo T vay T để đánh bạc.

Quá trình chơi bạc, bị cáo Nguyễn DU Q là người cầm bát, đĩa, Q vị xóc cái cho các con bạc tham gia đặt cửa. Khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị cáo Nguyễn Văn T ( Là con bà Thoa) đi làm về cùng tham gia đánh bạc 01 ván, đặt cửa 01 ván số T 1.000.000 đồng, thắng 1.000.000 đồng rồi đi ra ngoài sân uống nước. Các đối tượng đánh bạc Đ khoảng 01 Tg thì nhóm của Đ, Ngh, M, Trường, Hải, T và T bị thua hết T nên nghỉ không chơi nữa chỉ còn lại các bị cáo K, Q, T và V tiếp tục đánh bạc với nhau, bị cáo K là người xóc cái. Đánh bạc Đ mấy ván thì bị cáo K thua hết T. Lúc này, bị cáo K nghi ngờ nhóm của bị cáo V, T và Q chơi bạc bịp nên bị cáo K yêu cầu bị cáo T đập bát, đĩa để kiểm tra. Sau khi bị cáo T đập, bị cáo K nhặt phần đít bát lên tiếp tục đập nhỏ ra thì phát hiện đít bát có nhiều dây đồng nên cho rằng các bị cáo V, T và Q đã chơi cờ bạc bịp. Bị cáo K yêu cầu các bị cáo V, T và Q phải trả lại những người còn lại T. Lúc này bà Trịnh Thị Thoa về nhà thấy cãi nhau nên khUên các bị cáo V, T và Q trả lại T cho nhóm của bị cáo K thì các bị cáo V, T, Q đồng ý trả lại T cho những người thua bạc. Bị cáo K cầm giấy bút ghi lại số T mà K, Đ, Ngh, M, Trường, Hải, T, T mang đến và sử dụng để đánh bạc, tổng cộng là 112.500.000 đồng. Các bị cáo T, Q và V góp lại Đ khoảng 60.000.000 đồng nên hai bị cáo V và T vay của bị cáo Nguyễn Văn T 30.000.000 đồng và bị cáo V gọi điện thoại cho vợ là Hà Thị Đàn mang đến 22.500.000 đồng, thành tổng cộng là 112.500.000 đồng thì đưa cho bị cáo K. Sau đó, bị cáo K cùng các đối tượng ra quán cà phê ở thị trấn Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội để nhận lại T đã mang theo để đánh bạc và bị cáo K xé tờ giấy thống kê T vứt đi.

Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo Trịnh Xuân T khai mang theo 4.200.000 đồng đánh bạc, bị thua 1.600.000 đồng, còn lại 2.600.000 đồng; Nguyễn Văn V khai mang theo 1.000.000 đồng đánh bạc, thắng 6.000.000 đồng, tổng có 7.000.000 đồng; Nguyễn DU Q khai mang theo 43.000.000 đồng, trong đó 40.000.000 mang đến để mua xe máy của Nguyễn Văn T (Không sử dụng để đánh bạc) và sử dụng 3.000.000 đồng đánh bạc; Nguyễn DU Q thắng 5.000.000 đồng, tổng có 8.000.000 đồng từ việc đánh bạc; Trịnh Xuân K khai mang theo 17.000.000 đồng đánh bạc và thua hết; Trần Đắc Đ khai mang theo 22.000.000 đồng đánh bạc nhưng hoà T; Nguyễn Văn T khai bỏ ra 1.000.000 đồng đánh bạc, thắng 1.000.000 đồng, tổng có 2.000.000 đồng từ việc đánh bạc; Trần Đắc Ngh khai khi đánh bạc sử dụng 5.000.000 đồng đánh bạc, bị thua hết; Trần Đắc M khai sử dụng 4.000.000 đồng đánh bạc và thua hết; Đặng Đình T khai mang theo 2.000.000 đồng đánh bạc, bị thua hết; Trần Đắc T khai sử dụng 10.500.000 đồng đánh bạc, bị thua hết; Trần Đắc Đ, Trịnh Xuân K khai Nguyễn Văn Hải thua 9.000.000 đồng, Đỗ M Trường thua 10.000.000 đồng ( Hai đối tượng này bỏ trốn0. Khi vào tham gia đánh bạc, các đối tượng không quyết định phải mang theo bao nhiêu T để đánh bạc và không yêu cầu từng người phải bỏ T ra để kiểm tra. Tổng số T các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 88.700.000 đồng.

Sau khi nhóm bị cáo K kết thúc ra về và bị cáo Nguyễn Văn T đi làm, chỉ còn lại các bị cáo Nguyễn DU Q, Trịnh Xuân T và Nguyễn Văn V.

Đến khoảng 19h30 phút cùng ngày, các bị cáo Nguyễn Trọng M; Nguyễn Trọng Đ; Nguyễn Văn Đ; Đặng Trần Ng; Nguyễn Khả D; Nguyễn Cửu Kh; Nguyễn Văn K; Cùng đối tượng Đặng Đình Huấn; Nguyễn Cửu Đoàn (Tất cả cùng trú tại: Thôn Non Nông, xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội). Bị cáo Dương Đắc Q và bị cáo Hoàng Ng U, đang ngồi chơi ở cổng Bệnh viện đa khoa huyện Chương Mỹ thì nhận Đ tin có người phát hiện các bị cáo V, T Q chơi cờ bạc bịp nên tự đi đến nhà bà Thoa. Khi tất cả đến nơi thì bị cáo Nguyễn Văn V sợ bỏ chạy thoát, còn lại bị cáo Q và bị cáo T. Thấy vậy, các bị cáo M cùng Đ, Đ, Ng, Q, Kh, D, K, đối tượng Huấn, Đoàn và bị cáo U đưa bị cáo Q và T từ trong nhà ra sân nhà bà Thoa để quây lại, dùng chân tay đánh bị cáo Q và T. Đồng thời dùng kìm lấy ở nhà bà Thoa đe dọa bắt bị cáo Q, T phải đưa dụng cụ đánh bạc bịp ra. Sau đó, bị cáo M và bị cáo Đ nói ai thua bao nhiêu T thì cộng vào để yêu cầu phải trả đủ T.

Mặc dù không tham gia đánh bạc nhưng bị cáo M nói bị thua số T 60.000.000 đồng; bị cáo K nói bị thua 100.000.000 đồng; bị cáo Q nói bị thua 15.000.000 đồng và bị cáo U bảo bị thua 65.000.000 đồng, tổng số T là 240.000.000 đồng. Bị cáo Đ bắt bị cáo Q, bị cáo T phải nộp số T 240.000.000 đồng, nếu không phải gọi điện thoại cho người nhà đem T đến trả đủ, không trả sẽ không cho về. Sau đó, các đối tượng tiếp tục dùng chân tay đánh bị cáo Q và bị cáo T. Bị đánh đau nên bị cáo T đã gọi điện thoại cho bạn là anh Đặng Đình Thịnh (Sinh năm 1983; Trú tại thôn Đại Ơn, xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội) mang T đến cho bị cáo T vay.

Khoảng 15 phút sau, anh Thịnh đến nhận trách nhiệm trả T cho bị cáo T; Sau đó bị cáo M và Q cùng anh Thịnh đi vay Đ từ người quen của anh Thịnh số T 120.000.000 đồng rồi quay lại nhà bà Thoa. Sau khi nhận T thì cả nhóm thả cho bị cáo T về. Do bị cáo Q chưa có T nên các đối tượng lại tiếp tục đánh bị cáo Q. Do sợ bị đánh nên bị cáo Q gọi điện thoại cho bố vợ là: Ông Trịnh Xuân Thịnh (Sinh năm 1954; Trú tại: Thôn Cả, xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội) đến giải quyết . Khi ông Thịnh đến thì bị cáo Đ và bị cáo Kh yêu cầu ông Thịnh viết giấy nhận nợ cho bị cáo Q. Do ông Thịnh không mang Chứng M nhân dân nên bị cáo Đ và bị cáo Kh đi cùng ông Thịnh về nhà để bắt ông Thịnh viết giấy vay T với nội dung “Ngày 10/3/2018, ông Thịnh vay của Nguyễn Văn Đ số T 120 triệu đồng, thời hạn trả 07 ngày trả đủ số T trên, ông Thịnh có để lại một chứng M thư”. Sau đó, bị cáo Đ giữ Chứng M thư nhân dân của ông Thịnh và tờ giấy vay T. Đến khoảng 01h00 ngày 11/3/2018, khi đã viết giấy nhận nợ xong, các đối tượng mới cho bị cáo Q về. Số T 120.000.000 đồng thu Đ của bị cáo T thì bị cáo M giữ lại và chiếm hưởng 60.000.000 đồng. Bị cáo M chia cho bị cáo Đ 40.000.000 đồng, chia cho bị cáo Q 20.000.000 đồng. Trong số T 40.000.000 đồng Đ chia thì bị cáo Nguyễn Trọng Đ đưa cho bị cáo Ng giữ và nói hai người sử dụng chung để cho vay lấy lãi. Sáng ngày 11/3/2018, bị cáo Đ tiếp tục gọi điện cho ông Thịnh yêu cầu bị cáo Trịnh Xuân T phải trả thêm 50.000.000 đồng thì mới bỏ qua cho bị cáo T. Ông Thịnh thông báo cho bị cáo T biết và cùng anh T và bị cáo Q đến quán Cafe Hầm ở số 57, đường Bắc Sơn, xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội gặp để xin bị cáo Đ bớt cho 20.000.000 đồng thì bị cáo Đ đồng ý và bị cáo T đưa cho bị cáo Đ số T 30.000.000 đồng. Bị cáo Đ đưa số T này cho bị cáo Ng giữ và nói hai người sẽ sử dụng chung để cho vay lãi. Đến hạn ngày 17/3/2018, bị cáo Đ cùng bị cáo K đến nhà ông Trịnh Xuân Thịnh để lấy T theo hẹn trong giấy nhận nợ mà nhóm bị cáo M yêu cầu ông Thịnh viết. Tại đây, do ông Thịnh xin nên bị cáo Đ bớt cho 20.000.000 đồng và bị cáo Đ nhận số T 100.000.000 đồng từ ông Thịnh. Nhận T xong, bị cáo Đ viết vào góc trái phía dưới tờ giấy vay T với nội dung “Tôi đã nhận đủ số T 100 triệu đồng” và ký ghi rõ họ tên, đồng thời trả lại Chứng M thư nhân dân và tờ giấy nhận nợ cho ông Thịnh, ông Thịnh đưa lại cho bị cáo Q giữ. Sau đó, bị cáo Đ đưa cho bị cáo K số T 100.000.000 đồng để bị cáo K chia 20.000.000 đồng cho bị cáo Trần Đắc M; Chia cho bị cáo U 20.000.000 đồng; chia cho bị cáo Q 10.000.000 đồng và bị cáo K giữ lại 50.000.000 đồng. Sau khi nhận Đ T từ bị cáo Q nhưng không tìm Đ bị cáo V. Nên bị cáo Đ chỉ đạo cho đối tượng T (Chưa xác định Đ lai lịch) và T rủ Nguyễn Văn Hải (Sinh năm 1991; Trú tại thôn Cả, xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội) đến nhà bị cáo V để đòi T; đồng thời đến ném chất bẩn vào nhà bị cáo V gây sức ép để bị cáo V phải về gặp để nói chUện. Do chưa gặp Đ bị cáo V nên các đối tượng chưa lấy Đ T từ bị cáo V.

Ngày 17/4/2019, bị cáo Nguyễn Trọng M đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đầu thú.

Tang vật thu giữ gồm:

- Thu của bị cáo Nguyễn Trọng Đ: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S8 màu đen. Ngoài ra, bị cáo Đ tự ngUện giao nộp số T 150.000.000 đồng để khắc phục hậu quả.

- Thu của bị cáo Nguyễn Văn Đ: 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen. Bị cáo Đ tự ngUện giao nộp số T: 100.000.000 đồng để khắc phục hậu quả.

- Thu của bị cáo Dương Đắc Q: 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám.

- Thu của bị cáo Nguyễn Khả D: 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu trắng - vàng và 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen.

- Thu của bị cáo Đặng Trần Ng: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu trắng vàng.

- Thu của bị cáo Nguyễn Cửu Kh: 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen và 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen.

- Bà Trịnh Thị Thoa giao nộp: 01 kìm cộng lực dài khoảng 70cm bằng kim loại, cán kìm màu da cam và 01 khúc gỗ dạng thớt dày khoảng 10cm, đường kính khoảng 20cm cùng 02 chiếc kìm bằng kim loại, mũi kìm nhọn, cán kìm màu xanh.

- Thu của bị cáo Nguyễn DU Q: 01 tờ giấy kẻ ôly Hồng Hà, trong tờ giấy có đầu đề ghi “Giấy biên nhận”, người viết và ký tên là Trịnh Xuân Thịnh. Nội dung giấy biên nhận ghi “Tôi có vay của anh Nguyễn Văn Đ với số T là 120.000.000 đ (Một trăm hai mươi triệu đồng), thời hạn trả là 07 ngày, trả đủ số T trên”. Phần cuối bên trái của tờ giấy có chữ viết và chữ ký của Nguyễn Văn Đ với nội dung: “Đã nhận đủ số T 100.000.000đ (Đã giám định, xác định là chữ viết và chữ ký của Nguyễn Văn Đ).

Đối với việc các bị cáo Trịnh Xuân T và Nguyễn DU Q, bị các bị cáo Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Dương Đắc Q, Hoàng Ng U, Nguyễn Văn K, và đối tượng Nguyễn Cửu Đoàn, Đặng Đình Huấn đánh gây thương tích để chiếm đoạt tài sản. Ngày 10/9/2018, Cơ quan điều tra đã quyết định trưng cầu giám định thương tích của bị cáo Trịnh Xuân T nhưng bị cáo Trịnh Xuân T có đơn từ chối đi giám định thương tích. Tại kết luận giám định số: 933 ngày 15/10/2018 của Trung tâm pháp y thành phố Hà Nội. Kết luận bị cáo Nguyễn DU Q bị thương tích nhẹ không ảnh hưởng chức năng nên không có chương mục nào quyết định tỷ lệ tổn hại đối với các chạm thương này.

Ngày 26/5/2018, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả cho bị cáo Trịnh Xuân T số T: 150.000.000 đồng và trả lại bị cáo Nguyễn DU Q số T:

100.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Nguyễn DU Q Trịnh Xuân T không yêu cầu về bồi thường dân sự.

Tại bản cáo trạng số: 317/CT-VKS-P2 của viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã trU tố các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn DU Q, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn T, Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Trần Đắc M Đặng Đình T về tội Đánh bạc theo quyết định tại điểm b, khoản 2, Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

- Đối với các bị cáo Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Dương Đắc Q, Hoàng Ng U Nguyễn Văn K về tội Cướp tài sản theo quyết định tại điểm a, khoản 3, Điều của 168 của Bộ luật Hình sự.

Tại Phiên tòa:

Cáo bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn DU Q, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn T, Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Trần Đắc M, Đặng Đình T ( Trong vụ án đánh bạc).

Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Dương Đắc Q, Hoàng Ng U Nguyễn Văn K ( Trong vụ án cướp tài sản).

Các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội không có ý kiến thay đổi gì. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ Quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, giữ Ng quyết định trU tố các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn DU Q, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn T, Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Trần Đắc M và Đặng Đình T về tội “ Đánh bạc” theo quyết định tại điểm b, khoản 2, Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Dương Đắc Q, Hoàng Ng U và Nguyễn Văn K về tội “ Cướp tài sản” theo quyết định tại điểm a, khoản 3, Điều 168 Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Áp dụng Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trịnh Xuân T từ 36 đến 42 tháng tù về tội Đánh bạc.

2.Áp dụng Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h, khoản 1, Điều 52 Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn DU Q từ 36 đến 42 tháng tù về tội Đánh bạc.

3. Áp dụng Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V từ 36 đến 42 tháng tù về tội Đánh bạc 4.Áp dụng Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc.

5.Áp dụng Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trịnh Xuân K 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc.

6. Áp dụng Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Đắc Đ 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc.

7. Áp dụng Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Đắc Ngh 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc.

8. Áp dụng Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Đắc M 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc.

9. Áp dụng Điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đặng Đình T 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc.

10.Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 168, Điểm,b s Khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng M từ 13 đến 14 năm tù về tội Cướp tài sản.

11.Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 168, Điểm b, s Khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Đ từ 13 đến 14 năm tù về tội Cướp tài sản.

12.Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 168, Điểm b, s Khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 13 đến 14 năm tù về tội Cướp tài sản.

13.Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 168, Điểm b, s Khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đặng Trần Ng từ 13 đến 14 năm tù về tội Cướp tài sản.

14.Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 168, Điểm b,s Khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Khả D từ 13 đến 14 năm tù về tội Cướp tài sản.

15.Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 168, Điểm b, s Khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Cửu Kh từ 12 đến 13 năm tù về tội Cướp tài sản.

16.Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 168, Điểm b, s Khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Dương Đắc Q từ 12 đến 13 năm tù về tội Cướp tài sản.

17.Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 168, Điểm b, s Khoản 1,2 Điều 51, Điều 54 Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Ng U từ 12 đến 13 năm tù về tội Cướp tài sản.

18.Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 168, Điểm b, s Khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Ng Văn K từ 12 đến 13 năm tù về tội Cướp tài sản. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt T đối với các bị cáo Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trịnh Xuân T, Nguyễn DU Q đã Đ nhận lại tòa bộ số T bị cướp và không có yêu cầu bồi thường gì về tổn hại sức Kh.

Vật chứng vụ án: Đề xử lý theo quyết định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Đắc Q: Phân tích và đánh giá Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trU tố là quá nghiêm khắc. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt tù cho bị cáo, áp dụng khung liền kề, không chấp nhận khoản 3, số T không lớn, các bị cáo đã trả lại và bù trừ cho nhau, có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Đ: Phân tích và đánh giá Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trU tố là đúng người nhưng quá nghiêm khắc, thiếu chính xác, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đang nuôi hai con nhỏ, là lao động chính trong gia đình... Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo giảm nhẹ một phần hình phạt tù: Xử phạt bị cáo từ 7 đến 08 năm tù là hợp lý vì hành vi của bị cáo là đồng phạm, giản đơn.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo U, K: Phân tích và đánh giá Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trU tố là đúng người, đúng tội nhưng không đồng tình với mức án mà Viện Kiểm sát đề nghị mà cần xem xét Điều 17 của Bộ luật Hình sự về (Đồng phạm). Bị cáo U chỉ có lời đe dọa, bị cáo K giúp sức về mặt tinh thần, chỉ nhận 40 triệu. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình các bị cáo giảm nhẹ một phần hình phạt tù cho các bị cáo, áp dụng Điều 17,54, các điểm b,s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo Kh, D: Phân tích và đánh giá Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trU tố là đúng người, đúng tội, nhưng cần xem xét có lỗi của Bị hại chơi cờ bạc gian rối, các bị cáo chỉ a rua, các bị cáo không Đ lợi nhuận gì, trình độ văn hóa thấp, có hoàn cảnh khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình các bị cáo giảm nhẹ một phần hình phạt tù cho các bị cáo, áp dụng Điều 54, các điểm b,s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự Luật sư bào chữa cho các bị cáo M, Đ, Ng: Phân tích và đánh giá Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trU tố là đúng người, đúng tội, nhưng nếu không có bạc bịp thì không có vụ án này. Các bị cáo không Đ lợi nhuận gì, trình độ văn hóa thấp, có hoàn cảnh khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình các bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt tù cho các bị cáo, áp dụng Điều 54, các điểm b,s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã Đ tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và tội danh của các bị cáo: Trịnh Xuân T, Nguyễn DU Q, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn T, Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Trần Đắc M Đặng Đình T.

Phạm tội Đánh bạc theo quyết định tại điểm b, khoản 2, Điều 321của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Dương Đắc Q, Hoàng Ng U và Nguyễn Văn K phạm tội Cướp tài sản theo quyết định tại điểm a, khoản 3, Điều 168 của Bộ luật Hình sự.

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã Đ thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 16h00 ngày 10/3/2018, bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn Văn V, Nguyễn DU Q, Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Trần Đắc M và Đặng Đình T cùng đến nhà bà Trịnh Thị Thoa ở tại: Thôn Chúc Lý, xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội đánh bạc dưới hình thức đánh xóc đĩa ăn T. Khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị cáo Nguyễn Văn T là chủ nhà về và tham gia đánh bạc 01 ván với số T là 1.000.000 đồng. Tổng số T các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc Đ xác định là 88.700.000 đồng. Sau khi đánh bạc Đ khoảng 01 Tg thì cả bọn nghi ngờ các bị cáo V, T, Q chơi bạc bịp. K cầm bát, đĩa bắt T đập ra thì phát hiện đít bát có nhiều dây đồng nên yêu cầu bị cáo V, T, Q trả lại T. Lúc này bà Trịnh Thị Thoa về nhà thấy cãi nhau nên khUên các bị cáo V, T, Q trả lại T cho nhóm bị cáo K thì bị cáo V, T, Q đồng ý trả lại cho các đối tượng chơi bạc nêu trên số T là:112.500.000 đồng.

Sau khi nhóm bị cáo K ra về, chỉ còn lại các bị cáo Nguyễn DU Q, Trịnh Xuân T, Nguyễn Văn V tại nhà bà Thoa. Khoảng 19h30 phút cùng ngày các bị cáo Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Nguyễn Văn K, Đặng Đình Huấn, Nguyễn Cửu Đoàn, Dương Đắc Q và Hoàng Ng U nghe tin có người phát hiện các bị cáo V, T, Q chơi cờ bạc bịp nên đến nhà bà Thoa đưa bị cáo Q, bị cáo T từ trong nhà ra sân nhà bà Thoa. Tất cả quây lại, dùng chân tay đánh bị cáo Q, bị cáo T, dùng kìm lấy ở nhà bà Thoa đe dọa bắt bị cáo Q, bị cáo T phải trả tổng số T là: 240.000.000 đồng. Sau đó, các bị cáo tiếp tục dùng chân tay đánh bị cáo Q, bị cáo T. Nên bị cáo T gọi điện cho bạn là anh Đặng Đình Thịnh đến sau đó đi vay rồi trả cho cả bọn số T là: 120.000.000 thì Đ ra về. Còn bị cáo Q gọi điện thoại cho bố vợ là ông Trịnh Xuân Thịnh đến viết giấy nhận nợ với bị cáo Nguyễn Văn Đ số T là: 120.000.000 đồng thì mới cho về.

Số T 120 triệu đồng thu Đ của bị cáo T thì bị cáo M chiếm hưởng 60.000.000 đồng; Chia cho bị cáo Đ 40.000.000 đồng; Chia cho bị cáo Q 20.000.000 đồng. Bị cáo Đ cầm 40.000.000 đồng đưa cho bị cáo Ng giữ để sử dụng chung cho vay lấy lãi. Sáng ngày 11/03/2018, bị cáo Đ tiếp tục gọi điện cho ông Thịnh yêu cầu bị cáo T phải nộp thêm 50.000.000 đồng thì mới tha. Do sợ bị đánh nên ông Thịnh và bị cáo T xin thì bị cáo Đ giảm và bắt nộp 30.000.0000 đồng rồi đưa cho bị cáo Ng giữ. Đến ngày 17/03/2018, bị cáo Đ, bị cáo K đến nhà ông Trịnh Xuân Thịnh để lấy T, ông Thịnh xin thì bị cáo Đ bớt cho 20.000.000 đồng. Bị cáo Đ nhận là:

100.000.000 đồng của ông Thịnh rồi đưa cho bị cáo K. Bị cáo K chia cho một bị cáo nào không nhớ rnữa là: 20.000.000 đồng; Chia cho bị cáo U 20.000.000 đồng; Chia cho bị cáo Q 10.000.000 đồng, bị cáo chiếm hưởng 50.000.000 đồng. Sau khi nhận Đ T từ bị cáo Q nhưng không tìm Đ bị cáo V nên bị cáo Đ chỉ đạo cho đối tượng T và Nguyễn Văn Hải đến nhà bị cáo V để đòi T, đồng thời đến ném chất bẩn vào nhà bị cáo V gây sức ép để bị cáo V phải về gặp. Do chưa gặp Đ bị cáo V nên các bị cáo chưa lấy Đ T từ bị cáo V. Đến ngày 17/4/2019, bị cáo Nguyễn Trọng M đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội, đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội. Điều luật quyết định:

Tội cướp tài sản:

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a. Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.0000.000 đồng;

.......................

Điều 321. Tội đánh bạc 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất K hình thức nào Đ thua bằng T hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quyết định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa Đ xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt T từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm …… b/ T hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

….

[2] Hành vi của các bị cáo Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Dương Đắc Q, Hoàng Ng U, Nguyễn Văn K là ngU hiểm cho xã hội. Phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an tòa xã hội, đã có hành vi đe dọa, dùng vũ lực ngay tức khắc, dùng tay đánh vào mặt, ép ghi giấy nhận nợ, sau đó đi lấy T, dùng kìm của nhà bà Thoa với mục đích ép lấy Đ dụng cụ chơi bạc bịp không đúng với bản chất vụ việc, để chiếm đoạt tài sản của Bị hại, đã xâm phạm trật tự, an toàn xã hội.

Xét trong vụ án này không có kẻ chủ mưu và cầm đầu mà cùng nghe tin có bạc bịp mà các bị cáo đều cùng đến nhà bà Thoa. Nên có tính chất đồng phạm. Hội đồng xét xử thấy rằng vai trò của Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ là cao hơn, các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Dương Đắc Q, Hoàng Ng U Nguyễn Văn K là ngang nhau.

Hành vi của các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn DU Q, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn T, Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Trần Đắc M Đặng Đình T là ngU hiểm cho xã hội, các bị cáo lợi dụng nhà của gia đình bà Trịnh Thị Thoa để đánh bạc, xâm phạm trật tự công cộng, trật tự quản lý Nhà nước Đ pháp luật hình sự bảo vệ, xâm phạm chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội và sự bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân, gây thiệt hại về kinh tế của chính gia đình của từng bị cáo.

Các bị cáo Nguyễn DU Q, Nguyễn Văn V, Trịnh Xuân T, có vai trò cao hơn, các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Đặng Đình T, Trần Đắc M là ngang nhau, (Bị cáo M có giúp cơ quan điều tra trình các các đối tượng như Hải, Trường đang bỏ trốn và chưa Đ làm rõ).

Bị cáo Nguyễn DU Q có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Đ quyết định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự (Trong tội đánh bạc).

Các bị cáo Nguyễn Văn K; Dương Đắc Q; Nguyễn Khả D; Nguyễn Văn Đ; Nguyễn Trọng M đều có nhân thân xấu (Trong tội cướp).

Các bị cáo đều có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khắc phục toàn bộ hậu quả vì tại phiên tòa Bị cáo Nguyễn Trọng Đ và bị cáo Nguyễn Văn Đ đã chấp nhận cùng trả số T là 250.000 000 đồng, đã trả lại bị cáo Q, bị cáo T không đòi hỏi các bị cáo trong cùng vụ cướp tài sản phải có trách nhiệm trả cho nhau. Bị cáo Q, bị cáo T đều xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Do vậy, cần áp dụng điểm b, s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

Căn cứ vào các quyết định của Bộ luật Hình sự; Căn cứ tính chất và mức độ ngU hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Căn cứ nhân thân người phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cảu các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tất cả các bị cáo trong vụ án cướp tài sản, các bị cáo có hành vi đánh bạc bịp, có T án, vai trò quyết liệt hơn các bị cáo khác nên cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, các bị cáo khác đều có nhân thân tốt, chưa có T án cho Đ cải tạo tại địa phương, mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

Trong vụ án này có các đối tượng đã và chưa Đ xem xét: Đối với hành vi đổ chất bẩn của Nguyễn Văn Hải và đối tượng tên T vào nhà bị cáo Nguyễn Văn V, Công an thành phố Hà Nội đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Hải bằng hình thức phạt T, mức phạt 750.000 đồng, do chưa xác định Đ đối tượng T nên Cơ quan điều tra tách tài liệu liên quan đến đối tượng T để tiếp tục xác M, làm rõ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Cửu Đoàn, Đặng Đình Huấn bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội khởi tố bị can về tội Cướp tài sản, Trần Đắc T và Nguyễn Văn Hải đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội khởi tố bị can về tội Đánh bạc. Hiện nay đã bỏ trốn khởi nơi cư trú. Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự đối với các bị can và quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Đoàn, Huấn, T, Hải; khi nào bắt Đ sẽ xử lý sau.

Đối với hành vi của Đỗ M Trường, Trường khai ngày 10/3/2018 có đến nhà bà Thoa do Nguyễn Văn Hải rủ đến nhưng Trường không tham gia đánh bạc. Trong số các đối tượng tham gia đánh bạc chỉ có các bị cáo Trịnh Xuân K, Trần Đắc Ngh, Trần Đắc Đ khai Trường tham gia đánh bạc. Do bị can Nguyễn Văn Hải hiện nay đã bỏ trốn nên Cơ quan điều tra đã quyết định tách tài liệu đối với Trường để tiếp tục xác M, xử lý sau.

Đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T, bà Trịnh Thị Thoa và chị Nguyễn Thị Oanh là chủ nhà. Kết quả điều tra xác định khi các đối tượng đến nhà bà Thoa đánh bạc thì bị cáo T, bà Thoa và chị Oanh không có nhà, không bàn bạc về việc tổ chức đánh bạc, không cho thuê địa điểm đánh bạc. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với các đối tượng trên về hành vi Tổ chức đánh bạc.

Đối với việc các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn DU Q , Nguyễn Văn V sử dụng bộ bát, đĩa có gắn chíp điện tử để chơi cờ bạc bịp. Kết quả điều tra xác định bị cáo T, Q và V không bàn bạc với nhau và không chơi cờ bạc bịp, nhưng vẫn chơi bạc, Nhóm bị cáo K cho rằng các bị cáo chơi bạc bịp vào thu lại 120.000 000 đồng các bị cáo vẫn chấp thuận. Các bị cáo cho rằng không biết bát sứ có gắn chíp điện tử. Do Cơ quan điều tra không thu giữ Đ bộ bát, đĩa Q bài do các đối tượng sử dụng đánh bạc nên không có căn cứ đề xử lý.

Đối với việc bị cáo Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Đặng Đình T, Trần Đắc M, các đối tượng Trần Đắc T, Nguyễn Văn Hải, Đỗ M Trường yêu cầu nhóm bị cáo V, T, Q trả lại T bỏ ra đánh bạc bị thua và đã lấy lại tổng số T 112.500.000 đồng. Quá trình điều tra, các bị cáo khai không đe doạ, đánh đập các bị cáo V, T, Q để đòi T thua bạc. Việc các bị cáo V, T và Q trả lại T là do bà Trịnh Thị Thoa khUên đã tự ngUện trả nên không phạm tội Cưỡng đoạt tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với các đối tượng trên về tội Cưỡng đoạt tài sản.

Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã yêu cầu các bị cáo Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Đặng Đình T, Trần Đắc M, đối tượng Trần Đắc T giao nộp T sử dụng đánh bạc. Hiện các bị cáo đều khai đã sử dụng chi tiêu cá nhân và không có điều kiện để giao nộp nên Cơ quan điều tra không thu giữ Đ tang vật. Không có tính khả thi. Nên Hội Đồng xét xử không buộc các bị cáo phải nộp lại số T nêu trên đế sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với đối tượng nam giới khoảng 45 - 50 tuổi có mặt tại nhà bà Trịnh Thị Thoa ngày 10/3/2018 khi các đối tượng tham gia đánh bạc, nhận cầm cố tài sản, cho vay T, Cơ quan điều tra đã T hành điều tra nhưng chưa xác định Đ nhân thân nên ra quyết định tách tài liệu để xác M, làm rõ, khi nào đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với việc các đối tượng khai có hành vi đánh bạc ngày 08 và 09/3/2018. Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Trọng M khai ngày 09/3/2018 tham gia đánh bạc với các bị cáo V, T, Q và bị thua 60.000.000 đồng; Bị cáo Hoàng Ng U khai ngày 09/3/2018 tham gia đánh bạc với các bị cáo V, T, Q và bị thua 57.000.000 đồng; Bị cáo Nguyễn Văn K khai ngày 08 và 09/3/2018 tham gia đánh bạc với các bị cáo V, T, Q và bị thua 100.000.000 đồng nhưng các bị cáo M, U, K, Q không nhớ đánh bạc ở đâu, có những ai tham gia. Các bị cáo V, bị cáo T, bị cáo Q khai ngày 08 và 09/3/2018 không tham gia đánh bạc. Tài liệu điều tra đến nay chưa đủ căn cứ chứng M hành vi đánh bạc của các đối tượng vào ngày 08 và 09/3/2018 nên cơ quan điều tra quyết định tách tài liệu liên quan để tiếp tục điều tra, xác M, xử lý sau.

Trách nhiệm dân sự: Hai bị hại không có đề nghị gì.

[3] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt T đối với các bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47, 48 của Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu của bị cáo Nguyễn Trọng Đ: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen;

01 điện thoại di động Samsung Galaxy S8 màu đen để sung ngân sách Nhà nước. Vì tài sản này liên quan đến liên lạc để phạm tội.

Trả lại các bị cáo:

Nguyễn Văn Đ: 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen. Bị cáo Dương Đắc Q: 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám. Bị cáo Nguyễn Khả D: 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu trắng- vàng và 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen. Bị cáo Đặng Trần Ng: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu trắng vàng. Bị cáo Nguyễn Cửu Kh: 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen và 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen.

Bà Trịnh Thị Thoa giao nộp: 01 kìm cộng lực dài khoảng 70cm bằng kim loại, cán kìm màu da cam và 01 khúc gỗ dạng thớt dày khoảng 10cm, đường kính khoảng 20cm cùng 02 chiếc kìm bằng kim loại, mũi kìm nhọn, cán kìm màu xanh. Vì các chiếc điện thoại này các bị cáo không dùng liên lạc đến việc phạm tội, dụng cụ này là của bà Thoa các bị cáo tự động dùng, sau khi đã phục vụ cho công tác điều tra xong cần trả lại bà Thoa theo đúng quyết định của pháp luật.

- Thu của bị cáo Nguyễn DU Q: 01 tờ giấy kẻ ôly Hồng Hà, trong tờ giấy có đầu đề ghi “Giấy biên nhận”, người viết và ký tên là Trịnh Xuân Thịnh. Nội dung giấy biên nhận ghi “Tôi có vay của anh Nguyễn Văn Đ với số T là 120.000.000 đ (Một trăm hai mươi triệu đồng), thời hạn trả là 07 ngày, trả đủ số T trên”. Phần cuối bên trái của tờ giấy có chữ viết và chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn Đ với nội dung: “Đã nhận đủ số T 100.000.000đ (Đã giám định, xác định là chữ viết và chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn Đ) là tài liệu lưu trong hồ sơ vụ án.

[5] Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có Quyền kháng cáo theo quyết định của pháp luật.

[6] Các cơ quan T hành tố tụng của thành phố Hà Nội thực hiện đúng theo quyết định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm Quyền và các quyết định khác về điều tra, trU tố và xét xử. Kết luận điều tra của Công an thành phố Hà Nội, quyết định trU tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, áp dụng với các bị cáo là đúng, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn DU Q, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn T, Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Trần Đắc M, Đặng Đình T phạm tội Đánh bạc theo quyết định tại điểm b, khoản 2, Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ (Đ Tựa), Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Dương Đắc Q, Hoàng Ng U, Nguyễn Văn K phạm tội Cướp tài sản theo quyết định tại điểm a, khoản 3, Điều 168 của Bộ luật Hình sự.

1.Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trịnh Xuân T 20 ( Hai mươi) tháng tù về tội Đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2.Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h, khoản 1, Điều 52 Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn DU Q 30 (Ba mươi) tháng tù về tội Đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3.Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 24 (Hai bốn) tháng tù về tội Đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

4.Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 12 (Mười hai) tháng tù về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai bốn) tháng. Kể từ ngày Tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

5.Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trịnh Xuân K 15 (Mười năm) tháng tù về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng. Kể từ ngày Tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

6.Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Đắc Đ 15 (Mười năm) tháng tù về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng. Kể từ ngày Tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

7.Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Đắc Ngh 13 (Mười ba) tháng tù về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 26 (Hai sáu) tháng. Kể từ ngày Tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

8.Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Đắc M 12 (Mười hai) tháng tù về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai bốn) tháng. Kể từ ngày Tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

9.Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đặng Đình T 12 (Mười hai) tháng tù về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai bốn) tháng. Kể từ ngày Tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ngọc H, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người Đ hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quyết định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người Đ hưởng án treo cố ý vi phạm Ngh vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người Đ hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

10.Căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 168 Điểm b, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng M 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 17/04/2018.

11.Căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 168 Điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Đ 08 (Tám) năm tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 13/04/2018.

12.Căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 168 Điểm b, s Khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 07 (Bẩy) năm tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 13/04/2018.

13.Căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 168 Điểm b, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đặng Trần Ng 07 (Bẩy) năm tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 13/04/2018. về tội Cướp tài sản.

14.Căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 168 Điểm b, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Khả D 07 (Bẩy) năm tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 13/04/2018.

15.Căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 168 Điểm b, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Cửu Kh 07 (Bẩy) năm tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 13/04/2018.

16.Căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 168 Điểm b, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Dương Đắc Q 07 (Bẩy) năm tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 14/05/2018.

17.Căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 168 Điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Ng U 07 (Bẩy) năm tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 13/04/2018.

18.Căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 168 Điểm b, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Ng Văn K 07 (Bẩy) năm tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt T đối với các bị cáo.

Trách nhiệm dân sự: Không.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ các điều 47; 48 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Trả lại các bị cáo:

Nguyễn Văn Đ: 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen. Bị cáo Dương Đắc Q:

01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám. Bị cáo Nguyễn Khả D: 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu trắng- vàng và 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen. Bị cáo Đặng Trần Ng: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu trắng vàng. Bị cáo Nguyễn Cửu Kh: 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen và 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen.

Bà Trịnh Thị Thoa giao nộp: 01 kìm cộng lực dài khoảng 70cm bằng kim loại, cán kìm màu da cam và 01 khúc gỗ dạng thớt dày khoảng 10cm, đường kính khoảng 20cm cùng 02 chiếc kìm bằng kim loại, mũi kìm nhọn, cán kìm màu xanh.

Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11 /12 /2019. Tại kho vật chứng Cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước của bị cáo Nguyễn Trọng Đ: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S8 màu đen. Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/12 /2019. Tại kho vật chứng Cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn DU Q, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn T, Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Trần Đắc M, Đặng Đình T, Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Dương Đắc Q, Hoàng Ng U và Nguyễn Văn K, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng T án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

Quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn DU Q, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn T, Trịnh Xuân K, Trần Đắc Đ, Trần Đắc Ngh, Trần Đắc M, Đặng Đình T, Nguyễn Trọng M, Nguyễn Trọng Đ, Nguyễn Văn Đ, Đặng Trần Ng, Nguyễn Khả D, Nguyễn Cửu Kh, Dương Đắc Q, Hoàng Ng U, Nguyễn Văn K; Bị hại (Là bị cáo Q, T) có Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tuyên án.

Người có Quyền lợi, Ngh vụ liên quan vắng mặt có Quyền kháng cáo bản án của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến Quyền lợi, Ngh vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quyết định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2020/HS-ST ngày 17/02/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:55/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về