Bản án 55/2020/HNGĐ-ST ngày 10/08/2020 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 55/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2020 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 10 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 97/2020/TLST–HNGĐ, ngày 05 tháng 5 năm 2020 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2020/QĐXXST–HNGĐ, ngày 30 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1988 Địa chỉ: ấp , xã X, huyện L, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1991 Địa chỉ: ấp N, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị Phạm Thị L vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Nguyễn Văn C vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2015, chị L và anh Nguyễn Văn C có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Hòa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 07/9/2015. Trong thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn do vợ chồng anh chị không hợp nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng hai năm cho đến nay. Nay chị L nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn C.

Về quan hệ con chung: Chị Phạm Thị L xác định trong quá trình chung sống, giữa chị và anh C có 01 người con chung là cháu Nguyễn Nhựt M, sinh ngày 05/4/2016. Hiện tại cháu M đang sống chung với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi cháu M và chị L không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi cháu M.

Về tài sản chung: Chị L xác định giữa chị và anh C không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, chị L không có yêu cầu gì.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn C: Tòa án có tiến hành giao thông báo thụ lý và tiến hành lấy lời khai đối với anh Nguyễn Văn C nhưng anh C không có mặt ở địa phương nên không thể tiến hành giao thông báo thụ lý và không thể tiến hành lấy lời khai đối với anh C. Bên cạnh đó, Tòa án có tiến hành niêm yết các thủ tục theo quy định pháp luật do anh C không có mặt ở địa phương. Chính quyền địa phươg cũng xác định, anh C vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp N, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu và hiện tại không có ở địa phương nhưng lâu lâu anh C có về địa phương một lần.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi tham gia tố tụng cho đến nay, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Phạm Thị L và anh Nguyễn Văn C là vợ chồng.

Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi, hủy giấy chứng nhận kết hôn Số: (176) 315; Quyển số: 01/2015; Ngày, tháng, năm đăng ký: 07/09/2015 của UBND xã Ninh Hòa.

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Nhựt M, sinh ngày 05/4/2016 cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị L không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con nên anh C không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng anh C có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3. Về quan hệ tài sản: Chị Phạm Thị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Phạm Thị L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn C và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Nguyễn Văn C có nơi đăng ký thường trú tại ấp N, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn chị Phạm Thị L tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị L. Bị đơn anh Nguyễn Văn C vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Nguyễn Văn C.

Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Theo lời khai của chị Phạm Thị L thì chị L xác định chị và anh C có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Hòa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 07/09/2015. Trong quá trình chung sống giữa chị và anh C có phát sinh nhiều mâu thuẩn do vợ chồng anh chị không hợp nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng hai năm cho đến nay. Nay chị L nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh C. Tuy nhiên theo tài liệu chị L cung cấp là giấy chứng nhận kết hôn lập ngày 07/09/2015 (bản chính) nhưng không có chữ ký tên của vợ, chồng trên giấy chứng nhận kết hôn. Đối chiếu với quy định tại khoản 3 Điều 18 Nghị định số 158/2005/NĐ – CP, ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch do đó giấy chứng nhận đăng ký kết hôn nêu trên không có giá trị nên coi như chị L và anh C chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn. Do đó căn cứ vào Điều 14 và khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử không công nhận chị Phạm Thị L và anh Nguyễn Văn C là vợ chồng. Đồng thời, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi, hủy giấy chứng nhận kết hôn Số: (176) 315; Quyển số:

01/2015; Ngày, tháng, năm đăng ký: 07/09/2015 của UBND xã Ninh Hòa.

[2] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống chị L xác định giữa chị và anh Nguyễn Văn C có 01 người con chung là cháu Nguyễn Nhựt M, sinh ngày 05/4/2016. Hiện tại cháu M đang sống chung với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi con nhưng không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu M từ nhỏ cho đến nay sống cùng mẹ, đã có cuộc sống, môi trường ăn, ở ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Nguyễn Nhựt M, sinh ngày 05/4/2016 cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị L không yêu cầu cấp dưỡng nên anh C không phải cấp dưỡng nuôi cháu M nhưng anh C có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

[3] Về quan hệ tài sản: Chị Phạm Thị L xác định giữa chị và anh Nguyễn Văn C không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Buộc chị Phạm Thị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị định số 158/2005/NĐ – CP, ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Phạm Thị L và anh Nguyễn Văn C là vợ chồng.

Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi, hủy giấy chứng nhận kết hôn Số: (176) 315; Quyển số: 01/2015; Ngày, tháng, năm đăng ký: 07/09/2015 của UBND xã Ninh Hòa.

2/ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Nhựt M, sinh ngày 05/4/2016 cho chị Phạm Thị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Nguyễn Văn C không phải cấp dưỡng nuôi cháu M nhưng anh C được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về tài sản chung: Chị Phạm Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Phạm Thị L phải nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng chị L đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0003033 ngày 05/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2020/HNGĐ-ST ngày 10/08/2020 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

Số hiệu:55/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về