Bản án 55/2019/HS-ST ngày 01/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁP MƯỜI, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 55/2019/HS-ST NGÀY 01/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án Huyện, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 59/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Văn D (T), sinh năm 1968; nơi cư trú ấp AP, xã AL, huyện TN, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp không; trình độ văn hóa 3/12; dân tộc kinh; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Phan Văn B, sinh năm 1920 (chết) và bà Lê Thị H, sinh năm 1921; vợ tên Hồ Ngọc C (đã bỏ địa phương đi không rõ địa chỉ), có hai người con (con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2001); tiền án (có 03 tiền án ngày 06/3/2008, bị Tòa án huyện Tháp Mười xử phạt 07 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 27/5/2008, bị Tòa án huyện Tháp Mười xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”, tổng hợp hình phạt là 08 năm 06 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 14/02/2014; ngày 12/8/2015, bị Tòa án huyện Cao Lãnh xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 01/6/2019); tiền sự không; bị cáo bị tạm giữ ngày 08/8/2019, tạm giam ngày 13/8/2019 và có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại Mai Chí H - sinh năm 1990 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp 2, xã ĐBK, huyện TM, Đồng Tháp.

*Người làm chứng:

1- Trần Phước S (C) - sinh năm 1996 (Có Đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Khóm 2, thị trấn MA, huyện TM, Đồng Tháp.

2- Nguyễn Quốc H - sinh năm 1992 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp 5, xã ĐBK, huyện TM, Đồng Tháp.

3- Lại Văn C - sinh năm 2002 (Có mặt).

Người đại theo pháp luật: Ông Lại Văn S - sinh năm 1971.

Cùng địa chỉ: Ấp 4, xã ĐBK, huyện TM, Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08/8/2019, D từ thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, cùng P và L không rõ lai lịch và địa chỉ cụ thể chuẩn bị dụng cụ là đoản kim loại đi trên hai xe mô tô để đi đến huyện Tháp Mười, tìm tài sản là xe mô tô của người dân sơ hở để bẻ khóa lấy trộm. Đến khoảng 18 giờ 30 phút, D điều khiển xe mô tô đi đến kho thức ăn Kim Tuyến, thuộc khóm 2, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, D phát hiện nhiều xe mô tô đậu phía trước kho, không người trông giữ. D dừng lại để quan sát sau đó bỏ đi, vài phút sau, P và L đi một xe riêng, D đi một mình điều khiển xe mô tô quay lại kho thức ăn Kim Tuyến, dừng xe cách kho khoảng 20m. D xuống xe, đi lại nơi đậu nhiều xe mô tô trước cửa kho, một trong hai người còn lại qua ngồi trên xe của D điều khiển. D sử dụng đoản kim loại đã chuẩn bị từ trước, mở khóa xe mô tô nhãn hiệu Sirius, màu đỏ đen, biển số 66M1-092.93 do anh Mai Chí H đứng tên chủ sở hữu. Lúc này, anh H đang cùng bạn tổ chức uống rượu, ở phía sau kho thức ăn, qua hệ thống camera giám sát nhà kho anh H phát hiện D đang thực hiện hành vi mở khóa xe, nên cùng anh Trần Phước S, Nguyễn Quốc H, Lại Văn C chạy ra bắt quả tang D và thu giữ tại hiện trường một đoản kim loại dài 7,5cm, có dạng một đầu hình lục giác và một đầu dẹp dài 4cm, cùng một chìa khóa ống điếu dạng chữ L dài 16cm. Anh H trình báo và giao D cho Công an thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận định giá số 52/KLĐG ngày 25/9/2019, của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Tháp Mười kết luận 01 xe mô tô hiệu Sirius, màu đỏ đen, biển số 66M1-092.93 của anh H tại thời điểm bị mất trộm trị giá 10.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Mai Chí H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 xe mô tô hiệu Sirius, màu đỏ đen, biển số 66M1-092.93, số máy 5C64-878032, số khung 40CY-878026. Hiện đã trả lại cho anh H.

- Thu giữ do Nguyễn Quốc H giao nộp: 01 đoản kim loại dài 7,5cm, có dạng một đầu hình lục giác và một đầu dẹp dài 4cm; 01 chìa khóa ống điếu dạng chữ L dài 16cm hiệu GS Rebel.

- Thu giữ trên người D: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng hồng, số IMEI 1: 864543033807730, số IMEI 2 864543033807722; 01 chìa khóa bên trên có ghi chữ HONDA.

- 01 đĩa DVD chứa 02 đoạn video trích xuất từ camera ghi hình ảnh Phan Văn D thực hiện hành vi trộm xe mô tô hiệu Sirius, màu đỏ đen, biển số 66M1- 092.93 ngày 08/8/2019 tại khóm 2, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười.

Đối với L, P chưa đủ chứng cứ để xác định những người này là ai nên tách ra khỏi vụ án này khi nào xác định được sẽ xem xét xử lý sau.

Tại Bản Cáo trạng số 57/CT-VKSTM ngày 16 tháng 10 năm 2019, của Viện kiểm sát huyện Tháp Mười, truy tố bị cáo Phan Văn D (T) về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (gọi tắt BLHS 2015).

Tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát huyện Tháp Mười thực hiện quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng và phát biểu quan điểm luận tội, đưa ra những chứng cứ, lý lẽ kết tội đối với bị cáo. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

1- Về tội danh: Căn cứ Điều 173 của BLHS 2015 tuyên bố bị cáo Phan Văn D (T) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2- Về hình phạt: Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS 2015, xử phạt: Bị cáo Phan Văn D (T) từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù.

3- Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

4- Về vật chứng, căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy: 01 đoản kim loại dài 7,5cm, có dạng một đầu hình lục giác và một đầu dẹp dài 4cm; 01 chìa khóa ống điếu dạng chữ L dài 16cm hiệu GS Rebel; 01 chìa khóa bên trên có ghi chữ HONDA.

Tiếp tục quản lý của bị cáo Phan Văn D: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng hồng, số IMEI 1: 864543033807730, số IMEI 2 864543033807722 để đảm bảo thi hành án.

Lưu hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa 02 đoạn video trích xuất từ camera ghi hình ảnh bị can Phan Văn D thực hiện hành vi trộm xe mô tô hiệu Sirius, màu đỏ đen, biển số 66M1-092.93 ngày 08/8/2019 tại khóm 2, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười.

Tại phiên bị cáo D khai: Chiều ngày 08/8/2019 bị cáo cùng với anh P, anh L không rõ địa chỉ đi từ ngã ba ông bầu (huyện Cao Lãnh) đến huyện Tháp Mười, 03 người đi trên hai xe mô tô. P và L đi chung một xe, không nhớ ai chở ai, bị cáo đi riêng một xe, hai xe mô tô của L và P. Khi đến huyện Tháp Mười, bị cáo cùng với L và P đi uống cà phê, sau đó bị cáo kêu L và P về trước, bị cáo đi mua cơm cho mẹ bị cáo, khi đi ngang qua kho thức ăn Kim Tuyến, bị cáo thấy nhiều xe đậu trước cửa nên bị cáo đi đến dùng thanh đoản mang theo sẳn để mở ổ khóa nhưng không vừa, bị cáo vừa bỏ đi thì có nhiều người chạy đến đánh bị cáo và đưa đến Công an.

Người bị hại anh H khai: Anh làm quản lý ở kho thức ăn Kim Tuyến, xe cửa anh đậu trước cửa kho, cửa mở anh ở trong kho nhưng quan sát camera anh thấy một người thanh niên đến nơi đang đậu chiếc xe, anh truy hô có người trộm xe, sau đó anh H và anh C chạy ra bắt được bị cáo.

Người làm chứng anh H khai: Khi nghe anh H truy hô có người trộm xe, anh và anh C chạy ra thì bị cáo đứng gần xe định dẫn đi, ổ khóa xe đã bị mở nên anh bắt giữ bị cáo và chạy xe đến Công an (số xe ở vị trí số 4, ổ khóa đã bị mở và đề xe được).

Người làm chứng anh C khai giống lời khai của anh H.

Lời nói sau cùng của bị cáo D: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tháp Mười, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Tháp Mười, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Sau khi xét hỏi bị cáo và qua lời khai của người bị hại, người làm chứng. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình là bị cáo dùng thanh đoản kim loại phá ổ khóa xe mô tô hiệu Sirius của anh H, sau khi mở ổ khóa xong, bị cáo đứng gần xe định nổ máy chạy đi thì bị anh H và anh C bắt giữ đưa đến Công an.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp với Bản kết luận định giá tài sản số 52 ngày 25/9/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tháp Mười, kết luận 01 xe mô tô hiệu Sirius, màu đỏ đen, biển số 66M1-092.93 của anh H tại thời điểm bị mất trộm trị giá 10.000.000 đồng.

Xét bị cáo có 03 tiền án: Ngày 06/3/2008, bị cáo bị Tòa án huyện Tháp Mười xử phạt 07 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 27/5/2008 bị Tòa án huyện Tháp Mười xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”, tổng hợp hình phạt là 08 năm 06 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/02/2014; ngày 12/8/2015, bị Tòa án huyện Cao Lãnh xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 01/6/2019.

[3] Do đó, Viện kiểm sát huyện Tháp Mười truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tội phạm và hình phạt được quy định như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

…........

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

…....

g) Tái phạm nguy hiểm.

……………………..”.

[4] Xét bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo lại cố tình thực hiện, lỗi bị cáo là cố ý. Do đó, việc đưa bị cáo ra xét xử tại phiên tòa hôm nay là cần thiết, cần có mức án tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội và để phòng ngừa trong toàn xã hội nói chung và tại địa phương huyện Tháp Mười nói riêng do tình hình tội phạm về trộm cắp tài sản có chiều hướng ngày càng gia tăng.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS 2015.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về vật chứng, căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 đoản kim loại dài 7,5cm, có dạng một đầu hình lục giác và một đầu dẹp dài 4cm; 01 chìa khóa ống điếu dạng chữ L dài 16cm hiệu GS Rebel và 01 chìa khóa bên trên có ghi chữ HONDA.

Tiếp tục quản lý của bị cáo Phan Văn D: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng hồng, số IMEI 1: 864543033807730, số IMEI 2 864543033807722 để đảm bảo thi hành án;.

(Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tháp Mười đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/10/2019).

Lưu hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa 02 đoạn video trích xuất từ camera ghi hình ảnh bị cáo Phan Văn D thực hiện hành vi trộm xe mô tô hiệu Sirius, màu đỏ đen, biển số 66M1-092.93 ngày 08/8/2019 tại khóm 2, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, Đồng Tháp.

[9] Đối người tên L và P theo lời khai của bị cáo, Cơ quan điều tra không xác minh được người này là ai, nên tách ra khỏi vụ án, khi nào xác định được sẽ xem xét xử lý sau.

[10] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

 [11] Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo bản án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn D (T) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2- Xử phạt:

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Phan Văn D (T) 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 08/8/2019.

3- Về vật chứng, căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 đoản kim loại dài 7,5cm, có dạng một đầu hình lục giác và một đầu dẹp dài 4cm; 01 chìa khóa ống điếu dạng chữ L dài 16cm hiệu GS Rebel và 01 chìa khóa bên trên có ghi chữ HONDA.

Tiếp tục quản lý của bị cáo Phan Văn D: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng hồng, số IMEI 1: 864543033807730, số IMEI 2 864543033807722 để đảm bảo thi hành án;

(Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tháp Mười đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/10/2019).

Lưu hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa 02 đoạn video trích xuất từ camera ghi hình ảnh bị cáo Phan Văn Dũng thực hiện hành vi trộm xe mô tô hiệu Sirius, màu đỏ đen, biển số 66M1-092.93 ngày 08/8/2019 tại khóm 2, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, Đồng Tháp.

4- Về án phí, căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Phan Văn D (T) phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2019/HS-ST ngày 01/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:55/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tháp Mười - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về