TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC – TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
BẢN ÁN 55/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VỚI NGƯỜI MẤT TÍCH
Ngày 23 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 425/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn với người mất tích”
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06/9/2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm: 1989.
Địa chỉ: Tổ 18, thôn 3, xã BTr, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng tàu.
(Có đơn xin xét xử vắng mặt)
Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc D, sinh năm: 1987.
HKTT: Tổ 18, thổn 3, xã BTr, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng tàu.
Địa chỉ nơi cư trú cuối cùng: Tổ 18, thôn 3, xã BTr, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng tàu.
(Vắng mặt theo Quyết định tuyên bố mất tích số 11/2019/QĐ-GQVDS ngày 06/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 02/04/2019, biên bản lấy lời khai ngày 12/4/2019 và các biên bản làm việc khác thì chị Lê Thị H trình bày:
Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Quốc D quen biết được một thời gian thì đến ngày 06/9/2010 thì đăng ký kết hôn tại UBND xã Đắk Wer, huyện Đăk R’ Lắp, tỉnh Đắk Nông, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn thì vợ chồng về sống chung hạnh phúc được một thời gian đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thường xuyên cải vã, xích mích, không còn tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau từ đó vợ chồng không còn tình cảm. Bà H đã cố gắn khuyên giải và hàn gắn lại hạnh phúc gia đình để vợ chồng chung sống lo cho con chung. Do không hàn gắn được nên bà H đi làm ăn xa để anh D nuôi con chung. Được một thời gian thì gia đình thông báo anh D đã bỏ đi từ ngày 22/5/2016. Từ ngày anh D bỏ đi đến nay không cò tin tức gì mặc dù gia đình đã nổ lực tìm kiếm. Khi anh D bỏ đi không thông báo cho gia đình biết đi đâu. Do không tìm kiếm được anh D, bà H đã yêu cầu Tòa án tuyên bố anh D mất tích với lý do để xin ly hôn. Sau khi thụ lý Tòa án đã có thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng như Báo và Đài phát thanh Trung ương nhưng vẫn không thấy tung tích của anh D ở đâu. Ngày 06/8/2019 Tòa án nhân dân huyện Châu Đức đã ban hành Quyết định số 11/2019/QĐST-DS tuyên bố anh Nguyễn Quốc D mất tích.
Kể từ khi có Quyết định của Tòa án tuyên bố anh Nguyễn Quốc D mất tích đến nay chị H cũng không thấy anh Nguyễn Quốc D xuất hiện vì vậy chị H mới khởi kiện tới Tòa án nhân dân huyện Châu Đức để yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Quốc D.
Đến nay chị Lê Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Châu Đức giải quyết cho chị H được ly hôn với anh Nguyễn Quốc D.
Về con chung: Chị H và anh D có 01 con là cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 17/8/2009; từ ngày anh D bỏ đi chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng. Nay chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu giải quyết.
Đối với anh Nguyễn Quốc D do đã bỏ đi và đã có Quyết định tuyên bố mất tích nên Tòa án nhân dân huyện Châu Đức không thể triệu tập để lấy lời khai và hòa giải được.
Chị Lê Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, HĐXX nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Quốc D sống chung với nhau từ năm 2010 là hoàn tự nguyện có đăng ký kết hôn đúng pháp luật. Hiện nay chị Lê Thị H đang cư trú tại xã B Tr, huyện Châu Đức, anh Nguyễn Quốc D có nơi cư trú cuối cùng tại tổ 18, thôn 3, xã BTr, huyện Châu Đức. Nay chị H có đơn yêu cầu ly hôn căn cứ vào khoản 1, điều 28, điểm a, khoản 1, điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Châu Đức.
[2] Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Quốc D sau khi kết hôn hoàn toàn tự nguyện và chung sống hạnh phúc được 06 năm, đến tháng 5 năm 2015 anh D đột ngột bỏ đi và không nói rõ lý do, cũng từ đó gia đình không liên lạc được với anh D cho đến nay. Sau khi anh D bỏ đi chị H đã đi tìm mọi cách liên lạc khắp nơi nhưng không đạt kết quả. Do anh Nguyễn Quốc D bỏ đi mà không có tin tức gì nên chị Lê Thị H có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố anh Nguyễn Quốc D mất tích với lý do để xin ly hôn. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố mất tích của chị Lê Thị H đối với anh Nguyễn Quốc D. Tòa án đã thông báo tìm kiếm anh D trên thông tin đại chúng nhưng vẫn không có tin tức. Ngày 06/8/2019 Tòa án nhân dân huyện Châu Đức đã ban hành Quyết định số 11/2019/QĐST-DS tuyên bố anh Nguyễn Quốc D mất tích.
Đến nay chị H vẫn kiên quyết yêu cầu được ly hôn với anh D. Như vậy cho đến thời điểm này tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh D là không còn, hai người không còn sống chung với nhau nhiều năm, không còn liên lạc, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, anh D bỏ chị H ra đi mà không cùng với chị H lo vun vén để tạo dựng hạnh phúc gia đình. Từ ngày anh D bỏ đi đến nay chị H đã có nhiều cố gắng tìm kiếm anh D. Đồng thời Tòa án cũng đã có thông báo tìm kiếm nhưng không mang lại kết quả, vì vậy cho dù chị H có muốn hàn gắn lại hạnh phúc gia đình cũng không thể đạt được, mẫu thuẫn đã đến mức trầm trọng dẫn đến cuộc sống hôn nhân không thể tồn tại và kéo dài.
[3] Áp dụng pháp luật: Căn cứ vào khoản 2, điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nghĩ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh D là cơ sở.
[4]Về con chung: Có một con chung là cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 17/8/2009; từ ngày anh D bỏ đi các cháu sống với chị H, nay cháu có nguyện vọng được ở với chị H, chị H yêu cầu nuôi con chung là có căn cứ nghĩ nên chấp nhận. Ghi Nhận sự tự nguyện của của chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
[5]Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]Về án phí: Chị Lê Thị H chịu toàn bộ án phí.
Chị Lê Thị H có đơn xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Quốc D đã mất tích nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 điều 227, điều 228, 238 BLTTDS xét xử vắng mặt chị H và anh D.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 28, điều 35, 39, khoản 1 điều 227, khoản 1 điều 228, khoản 1 điều 238, điều 149 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Áp dụng: Điều 68 Bộ Luật dân sự năm 2015.
Áp dụng: Khoản 2 điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.
Áp dụng: Khoản 8 điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Lê Thị H đối với anh Nguyễn Quốc D trong việc tranh chấp ly hôn với người mất tích.
Về hôn nhân: Chị Lê Thị H được ly hôn anh Nguyễn Quốc D.
Về con chung: Có một con chung là cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 17/8/2009.
Chị Lê Thị H được tiếp tục nuôi dưỡng một con chung. Ghi nhận sự tự nguyện của chi Lê Thị H không yêu cầu anh Nguyễn Quốc D không phải cấp cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Toà án xem xét nên không giải quyết.
Về án phí HNST: Chị Lê Thị H nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm ngàn) đồng chị Lê Thị H đã nộp theo biên lai thu số: 0002018 ngày 03/9/2019 của Chi cục thi hành án thi hành án dân sự huyện Châu Đức chị Lê Thị H đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự .
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Bản án 55/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về tranh chấp ly hôn với người mất tích
Số hiệu: | 55/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Đức - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về