Bản án 55/2018/HS-ST ngày 01/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 55/2018/HS-ST NGÀY 01/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2018/TLST-HS ngày 20 tháng  6 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2018/QĐXXST-HS, ngày 19/7/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn Th - Sinh năm: 1983. Tại: Huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: Bản K, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp:Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Thái; Con ông: Lò Văn D (đã chết); và bà Tòng Thị H, bị cáo có vợ và 02 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/3/2018 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 20 phút ngày 17 tháng 3 năm 2018 tại bản Khá, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, tổ công tác công an huyện Sốp Cộp đã phát hiện và bắt quả tang Lò Văn Th đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ trong túi áo ngực bên phải Th đang mặc 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa 02 gói nilon màu đen chứa nhựa thực vật màu nâu đen (Nghi là thuốc phiện) Th khai nhận là thuốc phiện. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải Lò Văn Th về Công an huyện Sốp Cộp điều tra xử lý theo quy định của pháp luật

Hồi 10 giờ 10 phút ngày 19/3/2018 tại Phòng PC54 – Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng thu giữ trên. Kết quả cân tịnh: Cục nhựa thực thực vật màu nâu đen (nghi là thuốc phiện) trong gói nilon thứ nhất có khối lượng là 1,64 gam. Lấy 0,29 gam làm mẫu giám định, ký hiệu T, số còn lại 1,35 gam ký hiệu T1 vật chứng lưu kho. Cục nhựa thực thực vật màu nâu đen (nghi là thuốc phiện) trong gói nilon thứ hai có khối lượng là 1,40 gam. Lấy 0,1 gam làm mẫu giám định, ký hiệu T2, số còn lại 1,30 gam ký hiệu T3 vật chứng lưu kho.Tổng khối lượng 02 gói ma túy thu giữ là 3,04 gam.

Kết luận giám định số: 392/KLMT ngày 22/03/2018 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu giám định ký hiệu T và T2 là chất ma túy; Loại thuốc phiện; Khối lượng mẫu gửi giám định là T=0,29 gam, T2=0,1 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 3,04 gam, loại thuốc phiện”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn Th khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 17/03/2018 Th một mình đi bộ từ nhà tại bản Khá, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đến cụm Co Hạ, bản Khá, xã Mường Lạn để chăn trâu. Do có nhu cầu sử dụng ma túy Th đã đi tìm và hỏi mua được ở một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ được 02 gói nhựa thuốc phiện với giá 100.000 đồng. Mua được thuốc phiện Thoai cất vào trong túi áo ngực bên phải đang mặc với mục đích để sử dụng. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày Th quay về nhà, khi về đến khu Huổi Chập thuộc bản Khá, xã Mường Lạn thì bị tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng nêu trên.

Cáo trạng số 44 /CT – VKS, ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Lò Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo: Lò Văn Th từ 14 đến 18 tháng tù. Đồng thời đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, xử lý vật chứng theo quy định, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Th nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lò Văn Th khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ 3,04 gam, loại thuốc phiện với mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong vụ án này số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; ngoài mục đích sử dụng ra bị cáo không còn mục đích nào khác do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiêp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

 [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 [5] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự phạm tội lần đầu, theo báo cáo của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú thì bị cáo thường xuyên mua ma túy về sử dụng và có biểu hiện bán chất ma túy cho người khác để kiếm lời. Do đó để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

 [6] Đối với người đã trực tiếp bán ma túy cho bị cáo HĐXX xét thấy hành vi đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý hình sự, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng do đó không có căn cứ để điều tra xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

 [7] Vật chứng thu giữ của vụ án: Đối với 2,65 gam loại thuốc phiện còn lại sau khi đã trưng cầu giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu để tiêu hủy.

 [8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, tài sản không có gì nên không áp dụng hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Lò Văn Th phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249 điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo: Lò Văn Th 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 17/3/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu tiêu hủy 2,65 gam loại thuốc phiện. Vật chứng nêu trên được mô tả theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 19/6/2018 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp.

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Lò Văn Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 01/8/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2018/HS-ST ngày 01/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:55/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về