Bản án 54/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 54/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 05 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Bùi Văn T, sinh năm 1997, tại Hà Nội.

NĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 14, phường PL, quận HĐ, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Tr, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1972 vợ, con: chưa có; Tiền án: 05 tiền án:

Bản án số 232/2014/HSST ngày 05/11/2014, Tòa án nhân dân quận HĐ xét xử Bùi Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” và tuyên phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng. Bản án chưa được xóa.

Bản án số 162/2015/HSST ngày 16/9/2015, Tòa án nhân dân quận HĐ xét xử Bùi Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản”, tuyên phạt 09 tháng tù. Tổng hợp hình phạt với bản án số 232/2014/HSST ngày 05/11/2014, buộc Bùi Văn T phải chấp hành 15 tháng tù. Bản án chưa được xóa.

Bản án số 185/2015/HSST ngày 28/9/2015, Tòa án nhân dân quận HĐ xét xử Bùi Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản”; Quyết định tổng hợp hình phạt số 05/2015/QĐTH-HS ngày 03/11/2015 của TAND quận HĐ tổng hợp hình phạt của hai bản án, buộc Trung phải chấp hành 27 tháng tù. Bản án chưa được xóa.

Bản án số 96/2018/HSST, ngày 19/6/2018, Tòa án nhân dân quận HĐ xét xử Bùi Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” và tuyên phạt Trung 30 tháng tù.

Bản án số 107/2018/HSST ngày 10/8/2018, Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ xét xử Bùi Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” tuyên phạt 04 tháng tù, tổng hợp hình phạt với bản án số 96/2018/HSST, ngày 19/6/2018, Tòa án nhân dân quận HĐ, buộc Trung phải chấp hành hình phạt chung là 34 tháng tù. Bản án chưa được xóa.

Tiền sự: Không; nhân thân: Tại quyết định số 142 ngày 29/5/2012 của chủ tịch UBND quận HĐ, quyết định đưa Bùi Văn T đi trường giáo dưỡng với thời hạn 12 tháng về hành vi: “Trộm cắp tài sản” Tạm giữ, tạm giam: Từ ngày 24/10/2020 đến ngày 18/02/2021; hiện bị cáo bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Chị Đào Thị L, sinh năm 1980;

Trú tại: Thôn HB, xã TG, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Người bào chữa cho bị cáo T:

Luật sư Lưu Thị Ngọc L1 - Văn phòng Luật sư Hà Lan và cộng sự – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.

Đại diện hợp pháp của bị cáo T: Ông Bùi Văn T- sinh 1971 (bố đẻ bị cáo) Có mặt luật sư L1, ông Tr; chị L có đơn xin xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày, 23/10/2020, Bùi Văn T đi xe buýt từ khu vực nội thành Hà Nội đến khu vực xã TG, huyện Sóc Sơn thì xuống xe đi bộ xem nhà dân nào có sơ hở thì vào lấy tài sản. Khi T đi đến khu vực thôn HB, xã TG, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, T quan sát thấy nhà chị Đào Thị L không có ai ở nhà, cửa có khóa ngoài. T chui qua bờ rào vào nhà chị L, T nhặt được 01 cái cuốc, 01 dao, 01 bay làm vườn, T dùng Cuốc đập vỡ cửa kính và lẻn vào nhà luc lọi tìm tài sản nhưng không tìm được tài sản gì ở tầng 1. T lên tầng hai thì thấy trên bàn thờ có tiền mặt gồm nhiều tờ và nhiều mệnh giá khác nhau từ 1.000 đồng; 2000 đồng, 5.000 đồng, 10.000 đồng trên đĩa ở giữa bàn thờ. T lấy toàn bộ số tiền trên khi xuống tầng 01 để tẩu thoát thì bị người dân phát hiện và bắt giữ.

Qúa trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường thu giữ: 01 cái cuốc, 01 dao, 01 bay, toàn bộ số tiền T lấy được là 241.000 đồng gồm: 12 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 08 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng;

22 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng và 37 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng và lập biên bản thiệt hại về tài sản do T gây ra cho nhà chị L bao gồm: 01 ô cửa kính và 06 thanh nhôm.

Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 82 ngày 25/3/2021 của Viện pháp y tâm thần trung ương kết luận: Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 23/10/2020 và tại thời điểm giám định, Bùi Văn T có bệnh chậm phát triển tinh thần nhẹ. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992, bệnh có mã số F70. Tại các thời điểm trên, Bùi Văn T hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Bản cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 16/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố; Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại chị Ngô Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa quá trình điều tra có lời khai: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 23/10/2020, chị đi làm về thì được hàng xóm nói lại là có trộm vào nhà chị. Chị kiểm tra phát hiện ô cửa cạnh cầu thang bị đập vỡ, quần áo trong nhà bị vứt xuống đất và bị mất số tiền để trên bàn thờ gồm các tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 5.000 đồng, 2.000đồng và 1.000 đồng cụ thể tổng bao nhiêu tiền thì chị không nhớ chính xác. Ngoài số tiền trên bàn thờ và 01 ô cửa kính bị đập vỡ thì gia đình chị không bị mất tài sản gì thêm. Nay gia đình chị đã nhận lại toàn bộ số tiền bị mất và một số tài sản do cơ quan điều tra đã thu giữ để phục vụ điều tra vụ án, gia đình chị không có yêu cầu gì thêm về phần bồi thường dân sự. Đối với ô cửa kính bị đập vỡ, gia đình chị cũng không có yêu cầu giải quyết, chị xin vắng mặt tại phiên tòa.

Bào chữa cho bị cáo T, Luật sư Lưu Thị Ngọc Lan có ý kiến:

Cáo trạng truy tố bị cáo T về tội Trộm cắp tài sản là đúng. Bị cáo bỏ học sớm ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách. Nhận thức của bị cáo rất hạn chế, không nhận thức được hành vi của mình là đúng hay sai. Ông nội của bị cáo là thương binh, được tặng thưởng huân, huy chương. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ông Bùi Văn Tr không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như Cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm q, s khoản 1, Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt Bùi Văn T mức án từ 9 tháng đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án. Bị cáo được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày: 24/10/2020 đến ngày 18/02/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về dân sự: Không đặt ra giải quyết.

Về vật chứng: Không phải xử lý.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Do đó quyết định, hành vi đó là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa hôm nay. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Chiều ngày 23/10/2020, Bùi Văn T có hành vi lợi dụng sơ hở của gia đình chị Đào Thị L ở thôn HB, xã Trung Gĩa, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, T đã lén lút chui vào nhà, đập vỡ cửa kính, lục lọi tìm tài sản và lấy số tiền 241.000đồng trên bàn thờ của nhà chị L. Bùi Văn T đã có tiền án về tội: “Trộm cắp tài sản” và chưa được xóa, do vậy mặc dù lần thực hiện hành vi trộm cắp này chỉ với số tiền là 241.000đồng nhưng đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố bị cáo Bùi Văn T theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Xét tính chất của vụ án: Vụ án có tình chất ít nghiêm trọng nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, đó là nhưng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm q, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra ông nội bị cáo là thương binh, được tăng thưởng huân, huy chương, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng xét nhân thân bị cáo đã từng có 05 tiền án đều bị xét xử về tội: “Trộm cắp tài sản”, các bản án này đều chưa được xóa cho thấy bị cáo là người có nhân thân xấu, không tu dưỡng bản thân, không chấp hành các quy định của pháp luật do đó cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định có như vậy mới có đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Qúa trình điều tra vụ án, người bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm về phần bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên Cơ quan điều tra xác minh, bị cáo lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Qúa trình điều tra vụ án, cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Bùi Văn T: 08 (tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/10/2020 đến ngày 18/02/2021.

2. Về án phí: Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo, Luật sư được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:54/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về