Bản án 54/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 54/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang H và bà Đinh Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 10/01/2021 đến ngày 16/01/2021 chuyển tạm giam đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Ngô Văn G, sinh năm 1994; địa chỉ cư trú: Thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam; có mặt Người làm chứng:

+ Anh Lê Văn L; vắng mặt.

+ Anh Lê Văn L1; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 50 phút ngày 10/01/2021, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô BKS 90B2-47991 đi từ chỗ ở đến khu công nghiệp C thuộc tổ dân phố D, phường C, thành phố P, tỉnh Hà Nam chơi thì gặp người nam thanh niên tên là Tr (không biết địa chỉ cụ thể). Trong lúc nói chuyện, Tr nói với T “Anh em mình đi chơi đi” (T hiểu ý Tr rủ góp tiền mua ma túy sử dụng), T trả lời “Tao không có tiền”, Tr đưa cho T 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể và 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 02 viên nén màu hồng đỏ. Biết là ma túy nên Tr không mở ra kiểm tra mà cất vào túi quần phía trước bên trái đang mặc, sau đó Tr bỏ đi, còn T điều khiển xe máy đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi T đi đến khu vực cầu Đ thuộc tổ dân phố Đ, phường T, thành phố P thì bị tổ công tác của Công an phường T, thành phố P phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra, thu giữ trong túi quần bên trái của T 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất màu trắng dạng tinh thể, 01 túi nilon màu trắng có kẹp nhựa viền màu đỏ, bên trong có chứa 02 viên nén màu hồng đỏ. Tại chỗ T khai nhận đó là 02 gói ma túy của T cất giữ để sử dụng, lực lượng Công an đã đưa T cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa các hạt màu trắng dạng tinh thể; 01 túi nilon màu trắng có kẹp màu đỏ bên trong có 02 viên màu hồng đỏ được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 chứng minh nhân dân số 168351576 mang tên Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động Nokia vỏ màu đen đã qua sử dụng; 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA, BKS 90B2- 479.91.

Cùng ngày Công an phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam đã bàn giao đối tượng và vật chứng đến Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 11/01/2021 Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã tiến hành khám xét chỗ ở của Nguyễn Văn T tại thôn N, xã T, huyện T nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại bản kết luận giám định số 10/PC09 - MT ngày 14/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “- Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,036g loại: Methamphetamine.

-Mẫu viên nén trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,191g loại: Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 47/CT-VKS-PL ngày 22/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 24 đến 30 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo được hoàn trả lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói; trả lại cho anh Ngô Văn G 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha BKS 90B2-479.91; trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn T và 01 điện thoại di động Nokia song cần tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án dân sự.

luật.

+ Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp - Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Ngô Văn G trình bày: Anh là em họ của bị cáo T, ngày 10/01/2021 T mượn xe mô tô Yamaha BKS 90B2- 479.91 của anh nhưng anh không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Anh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho anh chiếc xe trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa; trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Bị cáo Nguyễn Văn T đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 10/01/2021, tại tổ dân phố Đ, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn T đang cất giữ trái phép 0,227 gam ma túy, loại Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường T, thành phố P phát hiện bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không cócông việc và thu nhập ổn định, mục đích tàng trữ để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về nguồn gốc số ma túy và đối tượng bán ma túy cho bị cáo: Bị cáo xác định số ma túy trên là của một nam thanh niên tên Tr đưa cho bị cáo tại cổng khu công nghiệp C thuộc tổ dân phố D, phường C, thành phố P, để sử dụng vào ngày 10/01/2021, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này. Ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không xác định được đối tượng có liên quan để xử lý cũng không làm rõ được nguồn gốc số ma túy mà bị cáo cất giấu.

[7] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- Đối với số ma túy loại Methamphetamine được hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói là vật chứng của vụ án mà Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01chứng minh nhân dân số 168351576 và điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án dân sự.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, BKS 90B2-479.91, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Ngô Văn G, ngày 10/01/2021 anh G cho bị cáo mượn xe để đi nhưng không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại cho anh G là phù hợp với pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí ; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2021.

3.Xử lý vật chứng và các tài sản đã thu giữ:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói hoàn trả sau giám định niêm phong trong phong bì mặt trước có ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 10/PC09-MT.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn T 01 chứng minh nhân dân số 168351576 mang tên Nguyễn Văn T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen nhưng cần tạm giữchiếc điện thoại để đảm bảo việc thi hành án dân sự.

-Trả lại cho anh Ngô Văn G 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, BKS 90B2- 479.91.

(Vật chứng có đặc điểm, tình trạng được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý hồi 16 giờ 00 phút ngày 19/3/2021).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 54/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về