Bản án 54/2021/HS-ST ngày 09/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 54/2021/HS-ST NGÀY 09/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Đại Quốc N.

Sinh ngày: 01/6/1996, tại tỉnh Đ.

Nơi cư trú: Thôn X, xã P, huyện K, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không có nghề nghiệp ổn định; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Võ Đại Quốc V, con bà Đồng Thị Phương H; Bị cáo có vợ là Đinh Thị Kim C (đã ly hôn); Có 01 con, sinh năm 2016.

Tiền án: Tại bản án số 64/2018/HSST ngày 29/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đ xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Vào ngày 06/01/2018, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bị Công an xã E, huyện K, tỉnh Đ ra Quyết định xử phạt hành chính số 02/QĐ-CA ngày 08/01/2018.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/5/2021 đến nay - có mặt tại phiên tòa.

+ Người bào chữa cho bị cáo Võ Đại Quốc N: Ông Nguyễn Tiến T - Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư B cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk - có mặt.

Địa chỉ: 306 N, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.

+ Bị hại: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1970 - vắng mặt.

Địa chỉ: Số nhà 92 tổ dân phố A, thị trấn K, huyện K, tỉnh Đ.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Lê Thanh P, sinh năm 1968 - vắng mặt.

Địa chỉ: Số nhà 92 tổ dân phố A, thị trấn K, huyện K, tỉnh Đ.

- Bà Hoàng Thị P, sinh năm 1981 - vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn T, xã C, thị xã B, tỉnh Đ.

+ Người làm chứng:

- Ông Đinh Hồng Đ, sinh năm 1973 - vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn B, thị trấn K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

- Bà Ngô Thị Bích N, sinh năm 1992 - có mặt.

Địa chỉ: Thôn X, xã P, huyện K, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9 giờ ngày 30/5/2021, Võ Đại Quốc N đi bộ từ nhà mình đến khu vực cổng chợ xã P, huyện K, tỉnh Đ để trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến cổng chợ xã P thì N thấy xe mô tô hiệu Dream, màu nâu để ở cạnh đường nhựa không có người trông coi, Nam nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe này và đi đến đạp xe để nổ máy nhưng không được. Lúc này, Võ Đại Quốc N nhìn sang bên cạnh thấy chiếc xe mô tô hiệu Dream màu nâu, biển kiểm soát 47M9-4491 của bà Huỳnh Thị H có cắm chìa khóa xe, trên xe có 01 giỏ nhựa để phía trước và 01 giỏ kim loại để phía sau đều đựng bún.

Võ Đại Quốc N đi lại rút chìa khóa xe mô tô biển kiểm soát 47M9-4491 rồi đi đến chiếc xe mô tô định ăn trộm trước đó để mở khóa nhưng không được. Võ Đại Quốc N rút lại chìa khóa và đi đến mở khóa của xe mô tô biển kiểm soát 47M9-4491 nổ máy rồi điểu khiển xe đi về hướng xã E, huyện K, tỉnh Đ. Trên đường đi Nam ghé vào quán cà phê của bà Ngô Thị Bích N tại thôn X, xã P, huyện K, tỉnh Đ gửi giỏ nhựa đựng bún ở cạnh cột điện gần đó và nói với người trong quán “Cho em gửi đây tý, lát em quay lại lấy”. Võ Đại Quốc N tiếp tục điều khiển xe đi về hướng xã E, huyện K, tỉnh Đ. Khoảng một tiếng sau Võ Đại Quốc N quay lại lấy chiếc giỏ nhựa thì bị ông Lê Huỳnh L là con trai bà H phát hiện nên giữ N lại và báo cho Công an có thẩm quyền bắt giữ.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 xe Dream, màu nâu biển kiểm soát 47M9-4491, 01 giỏ kim loại, 01 giỏ nhựa, 21 kg bún.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 26/KL-HDĐGTS ngày 04/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Krông Năng kết luận: 01 xe mô tô hiệu Dream, màu nâu biển kiểm soát 47 M9-4491 có giá 2.500.000 đồng, 01 giỏ kim loại có giá 16.200 đồng. Tổng giá trị tài sản định giá là 2.516.200 đồng. Đối với 01 giỏ nhựa đã qua sử dụng, 21 kg bún, hồ sơ pháp lý không được cung cấp đầy đủ nên Hội đồng định giá không có cơ sở để xác định giá trị tài sản.

Bản cáo trạng số 55/CT-VKS ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Võ Đại Quốc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Võ Đại Quốc N khai nhận về hành vi của mình phù hợp như nội dung kết luận điều tra và bản cáo trạng đã truy tố bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Võ Đại Quốc N mức hình phạt từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Công nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe Dream, màu nâu biển kiểm soát 47M9-4491, 01 giỏ kim loại, 01 giỏ nhựa, 21 kg bún cho bà Huỳnh Thị H là chủ sở hữu hợp pháp.

Người bào chữa cho bị cáo Võ Đại Quốc N có ý kiến tranh luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng truy tố bị cáo Võ Đại Quốc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 đối với bị cáo Võ Đại Quốc N. Trên cơ sở xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Năng và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Võ Đại Quốc N tại phiên tòa hôm nay về cơ bản là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Xét hành vi của bị cáo Võ Đại Quốc N vào ngày 30/5/2021 đã trộm cắp 01 xe Dream, màu nâu biển kiểm soát 47M9- 4491, 01 giỏ kim loại, 01 giỏ nhựa, 21 kg bún của bà Huỳnh Thị H trị giá 2.516.200 đồng là phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khỏe, có đầy đủ khả năng nhận thức pháp luật biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Do vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi của mình đã gây ra, tài sản mà bị cáo trộm cắp của bị hại có giá trị không lớn, đã được trả lại cho bị hại. Vì vậy, Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo từng có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Do đó, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Với tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật nên cần chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe Dream, màu nâu biển kiểm soát 47M9-4491, 01 giỏ kim loại, 01 giỏ nhựa, 21 kg bún cho bà Huỳnh Thị H. Xét việc giao trả tài sản trên cho chủ sở hữu hợp pháp là đúng pháp luật nên cần chấp nhận.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Huỳnh Thị H đã nhận lại tài sản bị trộm và không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Đại Quốc N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Võ Đại Quốc N 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 30/5/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Công nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã thu giữ và trả lại 01 xe Dream, màu nâu biển kiểm soát 47M9-4491, 01 giỏ kim loại, 01 giỏ nhựa, 21 kg bún cho bà Huỳnh Thị H là chủ sở hữu nhận sử dụng.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Võ Đại Quốc N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
  • Tên bản án:
    Bản án 54/2021/HS-ST ngày 09/09/2021 về tội trộm cắp tài sản
  • Số hiệu:
    54/2021/HS-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    09/09/2021
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2021/HS-ST ngày 09/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:54/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về