TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA SÚP, TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 54/2019/HSST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 56/2019/TLST-HS, ngày 23 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2019/QĐXX ST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đinh Hữu S - Sinh năm 1989, tại tỉnh Thanh Hóa;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn a, xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam.
Con ông Đinh Hữu K, sinh năm 1961 và con bà Hoàng Thị T, sinh năm 1969. Bị cáo có vợ là Lê Thị N, sinh năm 1993, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2017.
Tiền án: Không, tiền sự: Không Bị cáo đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Anh Nguyễn Như G, sinh năm 1986.
Trú tại: Thôn B, xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
- Người bào chữa cho bị cáo S: Ông Phạm Công H - Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lăk
- Người làm chứng:
1. Anh Lương Văn K1, sinh năm 1983.
Trú tại: Thôn C, xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
2. Ông Lang Đình V, sinh năm 1963
Trú tại: Thôn C, xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)
3. Anh Chu Văn Đ, sinh năm 1987
Trú tại: Thôn X, xã R, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
4. Anh Đinh Hữu Đ, sinh năm 1993
Trú tại: Thôn H, xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 05/3/2019, anh Nguyễn Như G ngồi uống rượu cùng với Đinh Hữu S, Đinh Hữu M ( là em trai Sáng), Lang Đình V, Lương Văn K1, Chu Văn Đ ở trên bãi đất trống gần mương nước thuộc tiểu khu 226, xã Y, huyện E. Khi ngồi nhậu mọi người đốt một đống lửa và dùng 02 chiếc đèn pin để lấy ánh sáng. Lúc này giữa anh G với S và M xảy ra cãi vã với nhau về việc lấy nước vào ruộng lúa, anh G có chửi S và M là “Ngu” rồi lấy 01 cái bát sành (Dùng để uống rượu) ném một phát trúng vào đầu của anh M làm anh M chảy máu. Thấy M bị anh G ném nên S đến dùng tay túm cổ áo anh G ghì xuống đất, bực tức vì bị anh G chửi và dùng bát sành ném nên anh M lao đến dùng chân tay đánh vào người anh G nhưng không gây thương tích gì. Tiếp đó S và anh G ôm vật nhau dưới đất, thấy vậy ông V chạy đến can ngăn. Sau khi được can ngăn, anh G đứng dậy lấy 01 điếu cày ở gần đó đánh trúng vào mặt M làm cho điếu cày bị bể còn M bị choáng ôm đầu ngồi xuống đất. Thấy M bị đánh thì S lấy 01 cây le dùng để nướng thịt gần đó vụt một phát trúng vào vai phải của anh G làm chảy máu, anh G quay lại dùng điếu cày đánh một phát trúng vào tay trái của S làm cây le rớt xuống đất, S tiếp tục lấy 01 bát sành ở gần đó ném một phát trúng vào trán của anh G làm chảy máu. Bị đánh anh G bỏ chạy thì S nhặt 01 cây củi trong đóng lửa ném trúng vào lưng của anh G làm bầm tím và bỏng, sau đó S tiếp tục lấy 01 cây củi khác cầm trên tay đuổi theo đánh trúng vào bụng phải, cẳng tay trái làm bỏng tay và đánh một cái trúng vào đỉnh đầu phái bên trái của anh G làm anh G gục xuống đất, sau đó S vứt cây củi tại đó rồi đi đến chỗ nhậu nói với mọi người là mình đã đánh anh G. Sau đó S lấy xe máy chở M về nhà, còn anh G được mọi người đưa đi bệnh viện huyện E sơ cứu sau đó chuyển lên bệnh viện đa khoa Thiện Hạnh điều trị.
Tại bản kết luận pháp y thương tích số 345/PY-TgT ngày 12/3/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Nguyễn Như G bị vết thương trán mi mắt trái ảnh hưởng thẩm mỹ 11%; Vết thương trán phải 04% cộng lùi 4%; Vết thương thái dương đỉnh trán trái 05% cộng lùi 4%; Vết thương trán phải 01% cộng lùi 1%. Tổng số 20%. Vật tác động : Cứng, có cạnh Tại bản kết luận pháp y thương tích bổ sung số 479/PY-TgT ngày 09/7/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Nguyễn Như G bị tỷ lệ thương tích vết bầm ở lưng 0%; tỷ lệ thương tích vết bỏng vùng cẳng tay 03%; tỷ lệ thương tích vết bỏng ở lưng 03%. Vết bỏng vùng cẳng tay và vết bỏng vùng lưng là do tác động trực tiếp của nhiệt độ cao gây nên.
Như vậy thì tổng tỷ lệ thương tích của anh Giang là 26%.
Tại bản kết luận pháp y thương tích số 505/PY-TgT ngày 26/4/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Đinh Hữu M bị sẹo đỉnh đầu phải kích thước 01 x 01 cm: 03%, do vật tày có cạnh tác động trực tiếp.
Vật chứng của vụ án là 01 điếu cày hình trụ; 01 điếu cày nát vỡ nham nhở; 01 cây gỗ than hóa, 02 mảnh áo thun màu đen.
Bản Cáo trạng số: 58/KSĐT-HS ngày 19 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp đã truy tố bị cáo Đinh Hữu S về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Đinh Hữu S khai nhận toàn bộ hành vi đúng như trong quá trình điều tra, nội dung bản Cáo trạng và nội dung tóm tắt đã nêu trên. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại về sức khỏe cho anh G 11.000.000đ và được anh G làm đơn bãi nại cho bị cáo.
Tại phiên tòa người bị hại G trình bày: Sự việc bị cáo S gây thương tích cho anh G là đúng như bị cáo khai nhận. Sự việc xảy ra cũng do một phần lỗi của anh G vì anh G là người chửi bị cáo và đánh, chửi M là em trai bị cáo trước nên gây bức xúc cho bị cáo và anh G cũng có đánh bị cáo. Bị cáo đã bồi thường cho anh G 11.000.000đ và làm đơn bãi nại cho bị cáo. Tại phiên tòa anh G không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo anh G đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo hưởng án treo.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp trình bày quan điểm luận tội đối với bị cáo. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên nội dung cáo trạng số: 58/KSĐT-HS ngày 19 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp. Truy tố bị cáo Đinh Hữu S về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Về hình phạt:
- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, e, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đinh Hữu S từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Các biện pháp tư pháp:
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị HĐXX tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 điếu cày hình trụ; 01 điếu cày nát vỡ nham nhở; 01 cây gỗ than hóa, 02 mảnh áo thun màu đen (Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2019 giữa cơ quan Công an huyện Ea Súp và Chi cục thi hành án dân sự huyện E. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và người bị hại. Tại phiên tòa người bị hại không yêu cầu gì nên không đặt ra để xem xét giải quyết.
Người bào chữa cho bị cáo S phát biểu quan điểm bào chữa:
Về tội danh người bào chữa cho bị cáo đồng ý với quan điểm của đại diện viện kiểm sát. Về mức hình phạt đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án dưới khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo vì: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đã bồi thường cho người bị hại, được người bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo, tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo là do một phần lỗi của người bị hại, bị cáo là người khuyết tật nặng được hưởng trợ cấp nhà nước, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, thuộc hộ nghèo, Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt.
Bị cáo, người bị hại không có ý kiến đối đáp, tranh luận gì đối với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo thừa nhận: Khoảng 23 giờ ngày 05/3/2019, bị cáo ngồi uống rượu cùng với anh Nguyễn Như G, Đinh Hữu M (Là em trai bị cáo), Lang Đình V, Lương Văn K1, Chu Văn Đ ở trên bãi đất trống gần mương nước thuộc tiểu khu 226, xã Y, huyện E. Khi ngồi nhậu giữa anh G với bị cáo và M xảy ra cãi vã với nhau về việc lấy nước vào ruộng lúa, anh G có chửi bị cáo S và M là “Ngu”, rồi lấy 01 cái bát sành (Dùng để uống rượu) ném một phát trúng vào đầu của anh M. Thấy M bị anh G ném nên bị cáo dùng tay túm cổ áo anh G xuống đất, sau đó do bị chửi và bị anh G đánh nên M đến dùng chân tay đánh vào người anh. Tiếp đó bị và anh G ôm vật nhau dưới đất, thấy vậy ông V chạy đến can ngăn. Sau khi được can ngăn, anh G đứng dậy lấy 01 điếu cày ở gần đó đánh trúng vào mặt M làm cho điếu cày bị bể còn M bị choáng ôm đầu ngồi xuống đất. Thấy M bị đánh thì bị cáo lấy 01 cây le dùng để nướng thịt gần đó vụt một phát trúng vào vai phải của anh G, anh G quay lại dùng điếu cày đánh một phát trúng vào tay trái của bị cáo. Sau đó bị cáo tiếp tục lấy 01 bát sành ở gần đó ném một phát trúng vào trán. Bị đánh anh G bỏ chạy thì bị cáo nhặt 01 cây củi trong đóng lửa ném trúng vào lưng của anh G làm bầm tím và bỏng, sau đó bị cáo tiếp tục lấy 01 cây củi khác cầm trên tay đuổi theo đánh trúng vào bụng phải, cẳng tay trái làm bỏng tay và đánh một cái trúng vào đỉnh đầu phái bên trái của anh G làm anh G gục xuống đất. Bị cáo đã gây thương tích cho anh G là 26%. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.
Từ những chứng cứ, nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đinh Hữu S phạm tội “Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.
Điều 134 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm;
………………………………….
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi bị cáo gây ra.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó không những trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi để nhận thức được việc dùng chén sành, khúc gỗ hóa than đang ở nhiệt độ cao là hung khí nguy hiểm để ném và đánh anh G là rất nguy hiểm, dẫn đến gây thương tích hoặc tính mạng của họ. Nhưng vì xuất phát từ việc anh G đánh anh M là em trai bị cáo nên bị cáo bức xúc không kiềm chế được nên bị cáo và anh G xảy ra xô xát, khi anh G bị đánh đã bỏ chạy thì bị cáo đuổi theo đánh gây thương tích cho anh G với tổng tổn thương cơ thể 26%. Vì vậy HĐXX xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất mức độ, hành vi bị cáo gây ra.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đã bồi thường cho người bị hại, được người bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo, tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo là người khuyết tật nặng được hưởng trợ cấp nhà nước, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, thuộc hộ nghèo, bị cáo đang nuôi con nhỏ. Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là vì bị cáo bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại gây ra. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, e, p, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của nhà nước ta đối với người phạm tội.
Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy không cần cách ly bị cáo ra ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ để răn đe giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và người bị hại. Tại phiên tòa người bị hại không yêu cầu gì nên không đặt ra để xem xét giải quyết.
[6] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 điếu cày hình trụ; 01 điếu cày nát vỡ nham nhở ; 01 cây gỗ than hóa, 02 mảnh áo thun màu đen (Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2019 giữa cơ quan Công an huyện Ea Súp và Chi cục thi hành án dân sự huyện E không còn giá trị sử dụng.
[7] Xét quan điểm của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo và các biện pháp tư pháp là có cơ sở cần chấp nhận.
[8] Đối với hành vi anh Nguyễn Như G gây thương tích cho anh Đinh Hữu M 03%, trong quá trình điều tra anh M có đơn xin rút yêu cầu khởi tố đối với anh G nên cơ quan điều tra quyết định xử lý hành chính đối với anh G. Việc anh M dùng chân tay đánh anh G nhưng không gây thương tích và anh G cũng đã rút đơn yêu cầu khởi tố đối với anh M nên Cơ quan điều tra cũng ra quyết định xử phạt hành chính đối với anh M là phù hợp cần chấp nhận.
[9] Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo Đinh Hữu S không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh Hữu S phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt:
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, e, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đinh Hữu S: 02 (Hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 (Bốn) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Đinh Hữu S về UBND xã Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk theo dõi giám sát, giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc theo dõi giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp bị cáo Đinh Hữu S thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo
3. Các biện pháp tư pháp:
- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không đặt ra để xem xét giải quyết.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự ; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 điếu cày hình trụ; 01 điếu cày nát vỡ nham nhở ; 01 cây gỗ than hóa, 02 mảnh áo thun màu đen (Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2019 giữa cơ quan Công an huyện Ea Súp và Chi cục thi hành án dân sự huyện E).
4. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo Đinh Hữu S không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 54/2019/HSST ngày 12/11/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 54/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea Súp - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về