Bản án 54/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 54/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Vào ngày 16 tháng 8 năm 2019, tại Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 35/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 46/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị L, sinh năm 1989.

Địa chỉ: ấp S, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: Anh Hồ D, sinh năm 1981.

Địa chỉ: ấp S, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

(Chị Bùi Thị L và anh Hồ D vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 02 tháng 01 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Bùi Thị L trình bày: trên cơ sở tự nguyện chị và anh Hồ D tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai vào ngày 23 tháng 7 năm 2012. Đây là hôn nhân lần đầu của cả hai.

Cuộc sống chung của anh chị không hạnh phúc do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh Hồ D không chăm lo làm ăn mà nhậu nhẹt, nên vợ chồng thường xảy ra cãi vã. Chị và anh Hồ D không còn sống chung từ tháng 8 năm 2018 đến nay. Do mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm không còn, hôn nhân không thể tiếp tục tồn tại nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Hồ D.

Về con chung: chị và anh Hồ D có 02 con chung là cháu Hồ Duy Ph, sinh ngày 11 tháng 02 năm 2011 và Hồ Ngọc Nh, sinh ngày 12 tháng 11 năm 2015, hiện nay chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai con chung, không yêu cầu anh Hồ D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

- Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Hồ D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Hồ D vắng mặt nên không có lời khai.

- Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân nhân dân huyện Xuân Lộc: Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn chị Bùi Thị L chấp hành các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn anh Hồ D không chấp hành các quy định của của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị cho chị Bùi Thị L được ly hôn với anh Hồ D; giao cháu Hồ Duy Ph, sinh ngày 11 tháng 02 năm 2011 và Hồ Ngọc Nh, sinh ngày 12 tháng 11 năm 2015 cho chị Bùi Thị L nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, chị Bùi Thị L không yêu cầu anh Hồ D cấp dưỡng nuôi con nên không xét; tài sản chung và nợ chung không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: chị Bùi Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Hồ D và yêu cầu nuôi dưỡng con chung; anh Hồ D có nơi cư trú tại xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai nên quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc.

[2] Về tư cách tham gia tố tụng: chị Bùi Thị L khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Hồ D nên chị Bùi Thị L là nguyên đơn, anh Hồ D là bị đơn.

[3] Về thủ tục tố tụng: anh Hồ D đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do, chị Bùi Thị L có đơn xin giải quyết vắng mặt nên xét xử vắng mặt anh Hồ D và chị Bùi Thị L tại phiên tòa là phù hợp với quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về quan hệ hôn nhân: chị Bùi Thị L và anh Hồ D tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo luật định nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Chị Bùi Thị L cho rằng vợ chồng mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, anh Hồ D không chăm lo làm ăn mà nhậu nhẹt, nên vợ chồng thường xảy ra cãi vã. Chị và anh Hồ D không còn sống chung từ tháng 8 năm 2018 đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh Hồ D nhiều lần nhưng anh Hồ D vẫn không có mặt để làm việc và hòa giải hàn gắn tình cảm. Qua xem xét các tài liệu chứng cứ đã thu thập, xét thấy lời trình bày của chị Bùi Thị L phù hợp với kết quả xác minh tình trạng hôn nhân vợ chồng chị Bùi Thị L và anh Hồ D tại địa phương. Nên có đủ cơ sở xác định mâu thuẫn của chị Bùi Thị L và anh Hồ D đã thật sự trầm trọng, không thể hàn gắn tình cảm, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nên chấp nhận cho chị Bùi Thị L được ly hôn với anh Hồ D là phù hợp.

[5] Về con chung: chị Bùi Thị L yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai con chung là cháu Hồ Duy Ph, sinh ngày 11 tháng 02 năm 2011 và Hồ Ngọc Nh, sinh ngày 12 tháng 11 năm 2015. Xét thấy, các con còn nhỏ và hiện đang sống cùng chị Bùi Thị L, quá trình giải quyết vụ án anh Hồ D không có lời khai nêu ý kiến về việc nuôi con chung khi ly hôn. Vì vậy, nên giao hai con chung cho chị Bùi Thị L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Tạm thời chị Bùi Thị L không yêu cầu anh Hồ D cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: chị Bùi Thị L trình bày không có nên không xem xét giải giải quyết.

[8] Về án phí: chị Bùi Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[9] Xét thấy, nhận định của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 9, Điều 11 của Luật Hôn nhân gia và gia đình năm 2000; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: chị Bùi Thị L được ly hôn với anh Hồ D.

- Về con chung: Giao cháu Hồ Duy Ph, sinh ngày 11 tháng 02 năm 2011 và cháu Hồ Ngọc Nh, sinh ngày 12 tháng 11 năm 2015 cho chị Bùi Thị L trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Tạm thời chị Bùi Thị L không yêu cầu anh Hồ D cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Anh Hồ D được quyền thăm nom, chăm sóc con chung. Khi cần thiết, chị Bùi Thị L và anh Hồ D được quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Chị Bùi Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 007040 ngày 02 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc, chị Bùi Thị L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Bùi Thị L và anh Hồ D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:54/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về