Bản án 54/2019/HNGĐ-ST ngày 08/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 54/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/11/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 248/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2019, về ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy D;

Địa chỉ cư trú: số 259, ấp p, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Trương Văn Đ;

Địa chỉ cư trú: Ấp p, xã Mỹ p, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10-9-2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy D đều trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trương Văn Đ tự nguyện đám cưới vào năm 2014, không ai ép buộc, có đến Ủy ban nhân dân xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 18 ngày 06-02-2014. Sau đám cưới, vợ chồng chị chung sống với nhau ở ấp p, xã M, thời gian đầu chung sống rất hạnh phúc, nhưng càng về sau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, dẫn đến thường xuyên cãi vã nhau và mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được nên từ tháng 5-2019 đến nay không còn sống chung với nhau. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng chị chung sống với nhau có được 01 con chung, tên là Trương Nhựt H, sinh ngày 13-12-2015, đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng chị không có nên chị cũng không yêu cầu giải quyết.

Đối với bị đơn anh Trương Văn Đ:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án cho anh biết nhưng anh không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị D. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ anh để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh vắng mặt không có lý do và chị D có yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải nữa. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, sau đó đã thông báo cho anh biết kết quả phiên họp. Đồng thời, Tòa án cũng ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Đ cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm:

Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, còn bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên tòa sơ thẩm nhưng vắng mặt không có lý do, là không thực hiện đứng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của chị D, cho chị ly hôn với anh Đ, giao con chung cho chị nuôi dưỡng, còn về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung, chị D không yêu cầu nên đề nghị không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy D, bị đơn anh Trương Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng váng mặt. Hội đồng xét xử thấy, đối với nguyên đơn là chị D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, còn bị đơn là anh Đ vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị D và anh Đ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị D, anh Đ kết hôn với nhau là trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc, được Ủy ban nhân dân xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 18 ngày 06-02-2014, nên quan hệ hôn nhân giữa hai người là hợp pháp. Khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn”. Như vậy, chị D có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đ.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị D, Hội đồng xét xử nhận thấy, sau khi đám cưới vào năm 2014, thời gian đầu chị D và anh Đ cũng chung sống hạnh phúc với nhau, nhưng càng về sau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, dẫn đến thường xuyên cãi vã nhau, làm cho đời sống hôn nhân không còn hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn và đã không còn sống chung với nhau từ tháng 5-2019 đến nay. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã mời hai bên hòa giải, động viên hàn gắn tình cảm, đoàn tụ với nhau, nhưng anh Đ không đến và chị D vẫn cương quyết xin ly hôn. Như vậy, cả hai người đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng, đó là không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không sống chung với nhau; làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nếu tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân này thì mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sng chung không th kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D, cho chị ly hôn với anh Đ.

[4] Về con chung: Chị D và anh Đ có 01 con chung là cháu Trương Nhựt H, sinh ngày 13-12-2015. Chị D yêu cầu được nuôi con. Xét yêu cầu này, Hội đồng xét xử thấy, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền, nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đi với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án giải quyết giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án, chị D và anh Đ không có thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn nên do Tòa án giải quyết. Hiện nay, cháu H chưa đủ 07 tuổi, cháu đang ở với chị D, do chị chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của cháu H, tránh xáo trộn cuộc sống hiện tại của cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị D, quyết định giao cháu H cho chị D tiếp tục nuôi dưỡng.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con ”. Đáng lẽ ra, anh Đ là người không trực tiếp nuôi con thì phải cấp dưỡng nuôi con, nhưng chị D không yêu cầu. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Ngoài ra, khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 còn quy định: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở”. Như vậy, anh Đ là người không trực tiếp nuôi con nên có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Chị D và anh Đ không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử cũng không đặt ra xem xét.

[8] Như vậy, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[9] Về án phí sơ thẩm: Chị D là người xin ly hôn nên theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điệu 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 2 và khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thùy D và anh Trương Văn Đ.

2. Về con chung:

- Giao cháu Trương Nhựt H, sinh ngày 13 tháng 12 năm 2015 cho chị Nguyễn Thị Thùy D nuôi dưỡng.

- Anh Trương Văn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Anh Trương Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thùy D và anh Trương Văn Đ không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thùy D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân; được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009230 ngày 10 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng và như vậy chị đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2019/HNGĐ-ST ngày 08/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:54/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về