Bản án 54/2018/HS-ST ngày 01/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 54/2018/HS-ST NGÀY 01/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2018/TLST- HS ngày 19 tháng 6 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 139/2018/QĐXXST-HS, ngày 19/7/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Văn B - Sinh năm: 1974. Tại: Huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: Bản K, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp:Trồng trọt; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Thái; Con ông: Tòng Văn Đ và bà Tòng Thị H (đều đã chết); bị cáo có vợ và 02 con.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/3/2018 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Quàng Văn Th

Nơi cư trú: Bản M, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ ngày 05/3/2018 Tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp làm nhiệm vụ tại khu vực bản Khá, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp đã phát hiện, bắt quả tang Tòng Văn B về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 01 túi nilon màu hồng chứa bột mầu hồng nghi là ma túy, Biến thừa nhận là ma túy tổng hợp, 01 xe máy hiệu HONDA Wave, BKS 26F1- 038.15 màu đỏ, đen, bạc số khung 279332; số máy 4413824. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải Tòng Văn B về Công an huyện Sốp Cộp điều tra xử lý theo quy định của pháp luật

Ngày 06/3/2018 tại Công an tỉnh Sơn La thành lập Hội đồng bóc, mở niêm phong, cân tịnh lấy mẫu giám định vật chứng. Kết quả cân tịnh chất bột mầu hồng nghi là ma túy thu của Tòng Văn B có tổng khối lượng 0,13 gam. Lấy hết làm mẫu giám định ký hiệu B1

Kết luật giám định số: 360 ngày 09/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu B1 là chất ma túy; Loại chất Methamphetamin; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,13 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Tòng Văn B khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 05/3/2018 Tòng Văn B mượn xe máy của anh Quàng Văn TH sinh năm 1990 ở bản M, xã M, huyện Sốp Cộp để về nhà ở bản K, xã M, huyện Sốp Cộp. Khi đi đến cụm Co Hạ thuộc bản Khá, xã Mường Lạn thì B rẽ vào nhà Tòng Văn G là anh em họ với B để chơi. Sau khi vào nhà, B gặp G đang ở nhà một mình B hỏi G nếu có ma túy (viên hồng phiến) thì cho B xin một viên về sử dụng. Nghe vậy G đã đưa cho B một vỏ bao thuốc lá Thăng Long và nói bên trong có hồng phiến. B nhận vỏ bao thuốc lá rồi cất giấu vào túi quần bên trái phía trước đang mặc, sau đó điều khiển xe máy về nhà. Trên đường về đến đầu bản K, xã M thì gặp Tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp đang làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra. Tổ công tác đã phát hiện trong túi quần phía trước bên trái B đang mặc có một vỏ bao thuốc lá Thăng Long, bên trong có một gói nilon mở gói nilon ra thấy có bột màu hồng B khai là ma túy tổng hợp, tổ công đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Cáo trạng số 43 /CT – VKS, ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Tòng Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo: Tòng Văn B từ 18 đến 24 tháng tù. Đồng thời đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, xử lý vật chứng theo quy định, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Tòng Văn B nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Tòng Văn B khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ 0,13 gam, loại chất Methamphetamine với mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong vụ án này số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; ngoài mục đích sử dụng ra bị cáo không còn mục đích nào khác do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiêp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố bị cáo là người có công với cách mạng được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 [5] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tiền án tiền sự là người có nhân thân xấu thể hiện, bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử một lần về tội Mua bán trái phép chất ma túy, sau khi trở về địa phương bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về ma túy, theo báo cáo của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú thì bị cáo thường xuyên mua hồng phiến về sử dụng và có biểu hiện bán chất ma túy cho người khác để kiếm lời. Do đó để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

 [6] Đối với người đã trực tiếp đưa ma túy cho bị cáo là Tòng Văn G HĐXX xét thấy hành vi đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý hình sự, nhưng quá trình điều tra xác định G không có mặt tại nơi cư trú, theo báo cáo của chính quyền đại phương G không biết đi đâu, làm gì do đó không có căn cứ để điều tra xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

 [7] Vật chứng thu giữ của vụ án: Đối với 0,13 gam loại chất Methamphetamine quá trình trưng cầu giám định đã sử dụng hết. Đối với chiếc xe máy hiệu HONDA Wave, BKS 26F1- 038.15 màu đỏ, đen, bạc số khung 279332; số máy 4413824 bị cáo mượn của anh Quàng Văn TH; quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Th. Khi B mượn xe để sử dụng xe đi tàng trữ ma túy, anh Th không biết, ngày 06/4/2018 anh Th có đơn xin lại chiếc xe máy xét thấy chiếc xe là tài sản có giá trị duy nhất của gia đình anh Th nên cần trả lại chiếc xe máy nói trên cho anh Th

 [8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, tài sản không có gì nên không áp dụng hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Tòng Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo: Tòng Văn B 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 06/3/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu tiêu hủy một phong bì thư màu trắng của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã niêm phong kín. Trả lại cho anh Quàng Văn Th chiếc xe máy hiệu HONDA Wave, BKS 26F1- 038.15 màu đỏ, đen, bạc số khung 279332; số máy 4413824. Vật chứng nêu trên được mô tả theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 19/6/2018 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp.

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Tòng Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 01/8/2018

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2018/HS-ST ngày 01/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về