TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 54/2018/HS-PT NGÀY 19/03/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2017/TLPT-HS ngày 22 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Lê Ngọc T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm 133/2017/HS-ST ngày 13 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
- Bị cáo có kháng cáo:
Lê Ngọc T, sinh năm: 1989. Nơi sinh: huyện D, Hà Nam. Nơi cư trú: số 128 đường N, thị trấn Đ, huyện D, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam, tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tiến D và bà Bạch Thị H; tiền sự: không; tiền án: có 01 tiền án: Ngày 22/8/2008 bị Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội giết người, 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Tổng cộng 08 năm tù. Ngày 09/9/2015 chấp hành xong hình phạt; bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/8/2017 đến nay (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 04 giờ 30 phút ngày 30/8/2017, Công an thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc tiến hành kiểm tra hành chính tại nhà nghỉ V thuộc khu phố 4, thị trấn A phát hiện tại phòng số 2 do Lê Ngọc T và Ngô Thị N thuê, bên trong tủ lạnh có chứa 01 bịch nilon màu trắng, kích thước 06 x 09 cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất, T thừa nhận đây là ma túy đá của T mua của một người đàn ông tên H tại thành phố L, tỉnh An Giang với giá 5.000.000 đồng để sử dụng và bán cho các con nghiện.
Trong quá trình điều tra, Lê Ngọc T khai nhận: Vào đầu tháng 8 đến cuối tháng 8/2017, Lê Ngọc T bán ma tuý cho Hồ Văn L được 03 lần tại thị trấn D và thị trấn A, cụ thể:
Lần thứ nhất vào đầu tháng 8/2017 bán cho Hồ Văn L 01 bịch ma tuý đá với giá 500.000 đồng, lần thứ hai vào giữa tháng 8/2017 bán cho Hồ Văn L 01 bịch ma túy đá với giá 500.000 đồng, lần thứ ba là vào ngày 29/8/2017 bán cho Hồ Văn L 01 bịch ma túy đá với giá 1.000.000 đồng tại đầu đường nhà nghỉ Đ thuộc thị trấn A.
*Vật chứng thu giữ:
- 01 bịch nilon màu trắng có rãnh gài, kích thước 06 x 09 cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất, 01 điện thoại di động hiệu Oppo đã qua sử dụng, tiền Việt Nam 6.000.000 đồng.
*Tại bản kết luận giám định số 530/KL-KTHS ngày 04/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: 01 bịch nilon màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methaphetamine, trọng lượng 8,8609 gam.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 133/2017/HSST ngày 13/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Ngọc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: điểm b, p khoản 2 Điều 194; điểm p, o khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999.
Xử phạt: Bị cáo Lê Ngọc T 10 (mười) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/8/2017.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 19/12/2017, bị cáo Lê Ngọc T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc T thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Kiên Giang đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là đúng tội và đề nghị xem xét đơn kháng cáo của bị cáo.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:
Xét đơn kháng cáo của bị cáo Lê Ngọc T về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định tại của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo.
[2] Về Quyết định của bản án sơ thẩm: Bị cáo Lê Ngọc T là đối tượng nghiện ma túy, vì mục đích hám lợi cá nhân và nhu cầu có ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện, trong khoảng thời gian tháng 8/2017, bị cáo T đã mua ma túy của một người tên H vừa để sử dụng vừa bán lại cho đối tượng nghiện Hồ Văn L 03 lần. Bị cáo thu lợi bất chính 2.000.000 đồng. Mặt khác, bị cáo Lê Ngọc T có tiền án về tội đặc biệt nghiêm trọng chưa được xóa án tích, nay lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, trường hợp của bị cáo là tái phạm nguy hiểm. Do đó, tòa án nhân dân huyện Phú Quốc xử phạt về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo: Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo T có một tiền án, sau khi chấp hành xong không chịu ăn năn hối cải, sống có ích cho xã hội mà lại tiếp tục sa vào con đường phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Xử phạt mức án 10 năm tù là tương xứng và phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới để Hội đồng xét xử xem xét nên không có cơ sở để chấp nhận. Do đó, chấp nhận đề nghị của vị đại diện viện kiểm sát, không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.
[4] Về quan điểm của vị đại diện viện kiểm sát: Tại phiên tòa, vị đại diện viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Toản, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên. Quan điểm của vị đại diện viện kiểm sát là có căn cứ phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử đã thảo luận và thấy rằng các Quyết định của bản án sơ thẩm về tội danh và mức hình phạt cho bị cáo Lê Ngọc T là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên chấp nhận quan điểm đề nghị của vị đại diện viện kiểm sát, không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo.
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.
Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Áp dụng: điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự; điểm p, o khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999.
Xử phạt: Bị cáo Lê Ngọc T 10 (mười) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/8/2017.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 133/2017/HS-ST ngày 13/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 54/2018/HS-PT ngày 19/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 54/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về