Bản án 541/2020/DS-PT ngày 21/10/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 541/2020/DS-PT NGÀY 21/10/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 21 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai, vụ án thụ lý số: 429/2020/TLPT-DS ngày 13 tháng 8 năm 2020 về "Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2020/DS-ST ngày 08 tháng 6 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3628/2020/QĐ- PT ngày 28 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bé N, sinh năm 1954 (có mặt);

Địa chỉ: Ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An.

- Bị đơn:

1. Bà Đỗ Thị C, sinh năm 1963; Địa chỉ: Ấp C1, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An.

2. Bà Đỗ Thị C2, sinh năm 1964; Địa chỉ: Ấp K, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An.

3. Ông Đỗ Văn M, sinh năm 1967;

4. Ông Đỗ Văn K1, sinh năm 1968;

5. Ông Đỗ Chí L, sinh năm 1972;

6. Ông Hồ Hoàng K2, sinh năm 1976;

7. Ông Hồ Anh V, sinh năm 1978; Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An.

8. Bà Hồ Thị T3, sinh năm 1982; Địa chỉ: Ấp C1, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của các bị đơn bà Đỗ Thị C, bà Đỗ Thị C2, ông Đỗ Văn M, ông Đỗ Văn K1, ông Đỗ Chí L, ông Hồ Hoàng K2, ông Hồ Anh V, bà Hồ Thị T3: Ông Trần Văn C3, sinh năm 1967 (có mặt).

Địa chỉ: Số 84 đường L1, Phường 4, thành phố T4, tỉnh Long An.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân huyện T2, tỉnh Long An. Địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn T2, huyện T2, tỉnh Long An.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn T5– Chủ tịch (vắng mặt – có văn bản yêu cầu giải quyết vắng mặt).

2. Ngân hàng X; Địa chỉ trụ sở chính: Số 18 đường T6, phường M1, Quận N1, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Đại P– Giám đốc Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện T2 (vắng mặt – có văn bản yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Địa chỉ liên lạc: Số 95 đường quốc lộ 62, khu phố 1, thị trấn T2, huyện T2, tỉnh Long An.

3. Ông Đỗ Văn S, sinh năm 1955;

4. Bà Phạm Thị S1, sinh năm 1956;

5. Bà Nguyễn Thị Tuyết N2, sinh năm 1967;

6. Bà Đặng Thị L3, sinh năm 1974;

7. Bà Lê Thị Lan P1, sinh năm 1981;

8. Bà Lê Thị Mỹ T7, sinh năm 1975;

Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Đỗ Văn S, bà Phạm Thị S1, bà Nguyễn Thị Tuyết N2, bà Đặng Thị L3, bà Lê Thị Lan P1, bà Lê Thị Mỹ T7: Ông Trần Văn C3, sinh năm 1967 (có mặt);

Địa chỉ: Số 84 đường L1, Phường 4, thành phố T4, tỉnh Long An.

- Người làm chứng: Ông Đỗ Thành N3, sinh năm 1948 (vắng mặt); Địa chỉ cư trú: Tổ 7, ấp Sóc 5, xã T8, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Bé N là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/8/2017, đơn khởi kiện bổ sung ngày 02/5/2018, ngày 24/4/2019, trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Vũ Khắc Đ1trình bày:

Bà Nguyễn Thị Bé N được Ủy ban nhân dân huyện T2 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An, cụ thể như sau:

Thửa 1204, tờ bản đồ số 6, diện tích 700m2 (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 588285, cấp ngày 26/3/2014).

Thửa 1453, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.731m2 (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 588286, cấp ngày 26/3/2014).

Thửa 16, tờ bản đồ số 9, diện tích 3.022m2 (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 588287, cấp ngày 26/3/2014).

Giáp ranh với phần đất của bà Bé N là các thửa đất: 1205, 1206, 1444 tờ bản đồ số 6; thửa 17, 100, 225 tờ bản đồ số 9 do bà Hà Thị N4 đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2015, bà N4 chết nhưng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn do bà N4 đứng tên. Các đồng thừa kế của bà N4 là các con của bà N4 gồm các ông bà: Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 sử dụng đất đã lấn sang đất của bà Bé N bằng việc tự kéo thước đo lại đất và dùng trụ đá cắm mốc sang phần đất của bà Bé N.

Nguồn gốc đất của bà Hà Thị N4, ông Đỗ Văn S, ông Đỗ Thành N3 đều do cha mẹ để lại. Các thửa đất của bà Bé N có nguồn gốc trước đây do ông Đỗ Thành N3 quản lý và sử dụng. Năm 1991 đến năm 1993, vợ chồng ông N3 có 03 lần sang nhượng lại cho bà Bé N các thửa đất trên (một lần làm giấy tay, hai lần thỏa thuận miệng). Tại thời điểm ông N3 chuyển nhượng đất thì đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ranh giới sử dụng ổn định, bà đã nhận đất và thanh toán đủ tiền cho ông N3. Năm 1997, Nhà nước lập bản đồ địa chính, bà Bé N tiến hành kê khai theo bản đồ địa chính đất để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi đó cấp đại trà, không đo đạc thực tế, thời điểm này không quy định phải ký giáp ranh với các chủ sử dụng đất liền kề. Đến năm 2014, do mở rộng tỉnh lộ 837 thì Nhà nước cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Bé N. Bà Bé N sử dụng phần đất tiếp giáp đường tỉnh 837 để xây dựng nhà ở, phần phía sau dùng để làm vườn. Theo hướng đường tỉnh 837 nhìn vào phía tay trái là phần tiếp giáp đất của bà Hà Thị N4. Phần đất của bà Bé N liền kề đất của bà N4 là 01 bờ ranh rộng khoảng một mét. Phần bờ này bà Bé N dùng để đi lại. Liền kề bờ ranh là bờ cây trâm bầu và tram, rộng ba mét, dọc hết đất của bà Bé N. Khi ông N3 chuyển nhượng đất cho bà Bé N thì ông N3 đốn toàn bộ tràm và trâm bầu chỉ còn gốc và bờ đất. Năm 2010, khi bà Bé N đi làm ăn3buôn bán ở xa thì các con của bà N4 lấn đất phá bờ gốc trâm bầu và tràm của bà Bé N để mở rộng bờ ranh, lúc đầu bờ ranh còn nhỏ, về sau thành bờ ranh to như hiện nay. Bà Bé N có phản đối thì bị các con của bà N4 hăm dọa. Về sau mâu thuẫn càng trầm trọng thì các con của bà N4 không cho bà Bé N đi trên phần bờ ranh nêu trên nên bà Bé N phải đi nhờ trên bờ ranh của ông Đỗ Văn S để kéo lúa về nhà.

Năm 2014, các con của bà N4 tự ý dùng trụ đá cắm mốc ranh giới đất trên phần đất của bà Bé N để xác định toàn bộ bờ ranh trên là đất của bà N4.

Ngoài ra, phần đất tại thửa số 16 phía sau kênh Hậu do có 02 ngôi mộ nên bà Bé N có xây bức tường che chắn ngang khoảng 10 mét để nhằm che 02 ngôi mộ lại để các con của bà Bé N không sợ khi nhìn từ nhà ra. Từ kênh Hậu trở đi bà Bé N có dùng lưới B40 làm hàng rào khoảng 20m chạy dọc đến bức tường để rào gà vịt vì khu vực này trước đây bà Bé N có trồng rau. Việc xây bức tường và rào lưới B40 không có nghĩa là bà Bé N xác định ranh đất giới hạn ở đó.

Trong quá trình sử dụng đất liền ranh, gia đình của bà Hà Thị N4 lấn sang phần đất của bà Nguyễn Thị Bé N nên bà Bé N khời kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc các con của bà N4 gồm các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 có nghĩa vụ trả cho bà Bé Nt ổng diện tích đất đo đạc thực tế là 2.214m2 bao gồm: diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An (theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019). Đồng thời bà Bé N không đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn; bởi lẽ gia đình bà N4 sử dụng đất nhưng không được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất, đất do bà Bé N là người được nhà nước công nhận theo đúng quy định của pháp luật.

Bà Bé N xác định không tranh chấp với các bị đơn các phần còn lại trong đó có phần đất tại các vị trí thuộc thửa 16B1 diện tích 1.140m2, thửa 16B2 diện tích 18m2 và 16C diện tích 202m2 có các ngôi mộ của phía gia đình bị đơn. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà N và ông Đỗ Thành N3 hoàn tất, bà N đã thanh toán đủ tiền và đã nhận đất nên bà N không tranh chấp gì đối với ông N3, chỉ tranh chấp với chủ sử dụng đất liền kề trong quá trình sử dụng đất là các con của bà N4.

Bị đơn ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 trình bày trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Trần Văn C3 trình bày và yêu cầu như sau:

Bà N4 có 02 người chồng (tên Đỗ Văn L4 và Hồ Văn T9). Ông L4 đã chết năm 1966, còn ông T9 chết cách nay khoảng hơn 10 năm. Bà N4 và ông L4 có 05 người con chung gồm: Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L. Sau khi ông L4 chết thì bà N4 chung sống với ông T9. Bà N4 và ông T9 có 03 người con chung gồm: Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3. Sau khi bà N4 sanh bà T3thì ông T9 cũng bỏ ra đi không còn chung sống với bà N4 nữa. Cha mẹ của ông L4, ông T9, bà N4 đều đã chết trước bà N4.

Tháng 10 năm 1996, bà Hà Thị N4 được Ủy ban nhân dân huyện T2 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 263184 đối với các thửa đất 1205, 1206, 17, 226, 320, 225, 318, 100, 511 tổng diện tích là 50.862m2 đất tọa lạc tại xã T1, huyện T2, tỉnh Long An. Năm 2012, Ủy ban nhân dân huyện T2 thu hồi đất diện tích 421m2 thuộc một phần thửa 1205, 1206 để nâng cấp Đường tỉnh 837, tổng diện tích còn lại là 50.441m2. Ngày 20/7/2016, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 ghi những thay đổi sau khi được cấp giấy xác định diện tích thửa 17 được điều chỉnh lại giảm 1.543m2, tách thành 02 thửa: thửa 17, diện tích 1.392m2, tờ bản đồ số 9; thửa 1444, diện tích 1.350m2, tờ bản đồ số 6; tổng diện tích còn lại là 48.898m2.

Trong tất cả các thửa đất trên có thửa đất 1205, 1206, 1444 (từ thửa 17 cắt qua), 17, 100, 225 giáp ranh đất với các thửa đất của bà Nguyễn Thị Bé N gồm thửa 1204, 1453 và thửa 16 mà hiện nay bà Bé Nđang tranh chấp. Trong quá trình sử dụng đất, bà Bé Ncó xây bức tường ngang và đổ trụ đá, làm hàng rào lưới B40 giáp ranh với đất của bị đơn để làm ranh giới giữa các thửa đất.

Các thửa đất do bà N4 đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc là do cha của ông L4 tặng cho vợ chồng bà N4 - ông L4 từ khi ông L4 còn sống (tuy nhiên tại thời điểm đó không làm giấy tờ gì). Sau khi ông L4 chết thì đến năm 1996 bà N4 mới đăng ký kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Về các thửa đất đó thì gia đình bà N4 đã sử dụng ổn định 60 năm. Ngoài ra, các thửa đất thuộc quyền sử dụng của gia đình bà N4 giáp ranh với các thửa đất của bà Bé N thì cách nay hơn 20 năm, khi nhà nước mở đê thì gia đình bà N4 có ban bờ kinh để làm đường cộ lúa và làm cầu bắc qua kênh Hậu, gia đình bà N4 sử dụng đất ổn định trên 30 năm. Nay bà Bé N khởi kiện yêu cầu các đồng bị đơn trả lại đất thì các đồng bị đơn không đồng ý.

Nguồn gốc các thửa đất do bà N4 đứng tên là do cha của ông Đỗ Văn L4(ông L4 là người chồng trước của bà N4) tặng cho vợ chồng ông L4 - bà N4. Vì vậy ông Hồ Văn T9 (ông T9l à người chồng sau của bà N4) không liên quan gì trong khối tài sản này. Sau khi bà N4 sanh bà T3 thì ông T9 cũng bỏ ra đi, không còn chung sống với bà N4 nữa. Về phần đất của bà Bé N có nguồn gốc như sau: Phần đất của bà Bé N trước đây là của cha ông L4. Sau đó cha ông L4 tặng cho ông Đỗ Thành N3 diện tích đất phần giáp lộ 837 chiều ngang khoảng 20m, đầu đất phía trong khoảng 07m, chiều dài đất khoảng 300m. Sau đó ông N3 chuyển nhượng lại phần đất này cho bà Bé N, bà Bé N sử dụng đất theo đúng hiện trạng do ông N3 giao. Khi ông N3 chuyển nhượng quyền sử dụng đất lại cho bà Bé N thì có thỏa thuận chừa ra 02 phần đất có các ngôi mộ (một là phần đất có 02 ngôi mộ của ông bà nội các bị đơn – phần đất này giáp với bức tường do bà Bé N xây dựng; hai là phần đất có ngôi mộ của cô các bị đơn – phần đất này ở cuối đuôi đất). Khi chuyển nhượng đất thì giữa ông N3 với bà Bé N thỏa thuận ông N3 không chuyển nhượng phần đất có các ngôi mộ này cho bà Bé N, tức là chuyển nhượng hai đầu 5đất, còn phần đất chính giữa không chuyển nhượng (tạm gọi đầu đất phía ngoài là tính từ phần giáp đường tỉnh 837 đến bức tường do bà N xây dựng, đầu đất phía trong tính từ ranh do hai bên xác định giáp phần đất có nền mộ của ông bà nội các bị đơn đến phần đuôi đất bên trong), phần đuôi đất bên trong thì không chuyển nhượng phần đất có nền mộ của cô các bị đơn. Vì vậy, toàn bộ phần đất ở đoạn giữa (phần có hai ngôi mộ của ông bà nội các bị đơn) và phần đất có ngôi mộ của cô các bị đơn (phần ở vị trí cuối đuôi đất) thì vẫn thuộc quyền sử dụng và quản lý của gia đình bị đơn. Hiện nay 02 phần đất có 03 ngôi mộ này thì trong gia đình thống nhất giao cho chú ruột của các bị đơn là ông Đỗ Văn S quản lý, không tranh chấp.

Ranh đất giữa các bên đã được bà N và bà N4 xác định, bà N cắm cọc ranh làm ranh giới, phần hiện tranh chấp do bà N4 sử dụng từ trước năm 1975 là trên 30 năm, gia đình bà N4 không lấn đất nên bị đơn không đồng ý trả đất theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đồng thời các đồng bị đơn có yêu cầu phản tố như sau:

Hủy một phần các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Bé N do Ủy ban nhân dân huyện T2 cấp số BP 588283, BP 588286, BP 588287, cấp cùng ngày 26/03/2014; đối với phần đất gồm diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An (theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019).

Yêu cầu công nhận cho các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 được quyền sử dụng tổng diện tích đất là 2.214m2 bao gồm diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An tại vị trí nêu trên. Ngoài ra, không yêu cầu gì khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn S trình bày như sau:Ông S là chú ruột của các bị đơn. Phần đất của bà Hà Thị N4 có nguồn gốc là của cha ông S tặng cho vợ chồng bà Hà Thị N4– ông Đỗ Văn L4. Khi ông L4 chết thì bà N4 đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Còn phần đất của bà Bé N cũng có nguồn gốc là của cha ông S. Sau đó cha ông S tặng cho ông Đỗ Thành N3, ông N3 tiếp tục chuyển nhượng lại đất cho bà Bé N. Phần đất của bà Bé Ndo ông N3 chuyển nhượng lại có vị trí một bên giáp phần đất của ông S, còn một bên giáp phần đất của bà N4. Phần đất của bà Bé N(mặt tiền giáp đường tỉnh 837) có chiều ngang tính từ mí cống của ông S kéo về đất của bà N4 khoảng 20m, còn mặt hậu (phần đuôi đất) thì chỉ có khoảng 07m chiều ngang. Khi ông N3 chuyển nhượng đất cho bà Bé N thì có xác định ranh giới rõ ràng. Trong quá trình sử dụng đất, giữa bà Bé N với các con của bà N4 đã thống nhất cắm các trụ đá để làm ranh giới giữa các thửa đất. Phần đất giáp kênh Hậu về phần đất cho 02 ngôi mộ của cha mẹ ông6 S thì bà Bé N có làm hàng rào lưới B40 chạy dài từ kênh Hậu đến phần ranh đất có 02 ngôi mộ. Tại phần ranh đất có 02 ngôi mộ thì bà Bé N có xây 01 bức tường ngang để làm ranh. Khi thỏa thuận chuyển nhượng đất cho bà Bé N thì ông N3 không chuyển nhượng phần đất mộ, tính từ bức tường làm ranh do bà Bé N xây dựng. Như vậy toàn bộ phần đất ở đoạn giữa (phần có 02 ngôi mộ của cha mẹ ông S) và phần đuôi đất phần có ngôi mộ của chị ông S) thì ông N3 không chuyển nhượng cho bà Bé N. Bà Bé N cũng thống nhất với sự thỏa thuận này. Khi chuyển nhượng đất cho bà Bé Nt hì giữa ông N3 với bà Bé N có làm giấy tờ rõ ràng, có xác định vị trí các phần đất không chuyển nhượng nêu trên. Về các phần đất có 03 ngôi mộ của người thân ông S thì trong gia đình thống nhất giao cho ông S quản lý hiện không ai tranh chấp. Còn về ranh giới giữa các thửa đất của bà Bé N với các thửa đất của bà N4 đã được các bên thống nhất xác định và đã sử dụng ổn định từ trước đến nay. Phần ranh tranh chấp là đường cộ lúa do các con của bà N4 đắp và gia đình bà N4 đã sử dụng mấy mươi năm nay nên bà Bé N khởi kiện là không có cơ sở. Trong vụ án này, ông S không tranh chấp, không yêu cầu độc lập. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị S1 trình bày như sau: Bà S1 là vợ ông S. Bà S1 thống nhất với toàn bộ lời trình bày của ông S. Bà S1 đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì nguyên đơn kiện không có cơ sở. Trong vụ án này, bà S1 không yêu cầu độc lập. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Tuyết N2, bà Đặng Thị L3, bà Lê Thị Lan P1, bà Lê Thị Mỹ T7 trình bày như sau: Bà N2, bà L3, bà P1, bà T7 thống nhất với toàn bộ ý kiến của bị đơn, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì nguyên đơn kiện không có cơ sở. Trong vụ án này, bà N2, bà L3, bà P1, bà T7 không yêu cầu độc lập. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng X do ông Phan Đại P là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Ông Đỗ Văn M, ông Hồ Anh V và bà Nguyễn Thị Bé N có vay vốn tại Ngân hàng. Tuy nhiên, trong vụ án này Ngân hàng không có ý kiến và không có yêu cầu độc lập, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật. Đồng thời, Ngân hàng xin vắng mặt trong suốt quá tình giải quyết vụ án tại Tòa án các cấp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện T2 có văn bản trình bày: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Bé N và bà Hà Thị N4 là đúng quy định pháp luật. Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Bé N thì phần đất có 02 ngôi mộ do gia đình bị đơn quản lý. Sự chênh lệch diện tích đất theo giấy chứng nhận so với diện tích đo đạc thực tế thì thống nhất theo công văn của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện T2.

Người làm chứng ông Đỗ Thành N3 trình bày: Nguồn gốc phần đất ông bán cho bà Nguyễn Thị Bé N là của cha mẹ ông cho. Ông chỉ bán cho cho bà Bé N một lần duy nhất, hai bên có làm giấy t7ay, có thể hiện hiện trạng đất chuyển nhượng, ông đã nhận đủ tiền và giao đất cho bà Bé N. Riêng tại vị trí hiện bà Bé N và các con của bà N4 đang tranh chấp là của bà N4, do gia đình bà N4 sử dụng, ông không có bán phần đất này cho bà Bé N.

Ngày 13/4/2018, Tòa án nhân dân huyện T2 thụ lý vụ án.

Ngày 18/11/2019, Tòa án nhân dân huyện T2 chuyển vụ án theo quy định tại Điều 32 Luật tố tụng hành chính và Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 17/02/2020 Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý vụ án theo thủ sơ thẩm.

Tại phiên tòa, các đương sự không thỏa thuận với nhau việc giải quyết vụ án. Các đương sự thống nhất với kết quả đo đạc, định giá có trong hồ sơ vụ án làm căn cứ giải quyết vụ án. Đề nghị căn cứ theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019 và kết quả thẩm định, định giá đã định; không yêu cầu đo đạc, định giá lại tài sản tranh chấp. Các đương sự thống nhất không yêu cầu triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Đề nghị Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định pháp luật. Các đương sự thống nhất không có yêu cầu khởi kiện bổ sung nào khác, thống nhất không bổ sung người tham gia tố tụng nào khác. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2020/DSST ngày 08/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An tuyên xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé N đối với các bị đơn các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất tổng diện tích đất là 2.214m2 bao gồm diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An (theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019).

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 đối với nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé N.

2.1. Hủy một phần các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Bé N do Ủy ban nhân dân huyện T2 cấp số BP 588283, BP 588286, BP 588287, cấp cùng ngày 26/03/2014 đối với phần đất gồm diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An (theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019).

2.2. Các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 được tiếp tục quản lý, sử dụng phần đất phần đất gồm diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An (theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019).

Các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 có trách nhiệm liên hệ cơ quan quản lý nhà nước về đất đai để được cấp, điều chỉnh diện tích đất của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng diện tích đất theo quy định của pháp luật.

Bà Nguyễn Thị Bé N không được quyền ngăn cản các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 thực hiện quyền của người được xác lập quyền sử dụng đất theo bản án, quyết định của Toà án.

Cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.

(Vị trí, tứ cận, diện tích, loại đất tất nêu trên theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về chi phí đo đạc, định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ, án phí và quyền kháng cáo theo qui định pháp luật.

Ngày 18/6/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Long An nhận đơn của bà Nguyễn Thị Bé N là nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị sửa án theo hướng chấp nhận yêu cầu của bà Bé N.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Bé N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Kháng cáo bà N trong hạn luật định. Diện tích đất tranh chấp 2.214m2, bao gồm: diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê du9yệt vào ngày 08/8/2019, được Ủy ban nhân dân huyện T2 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân bà Nguyễn Thị Bé N. Nguồn gốc đất của bà N do ông N3 chuyển nhượng. Đất giáp với đất của bà N4. Theo tờ cam kết ngày 22/12/1996 về việc đo đạc đất cắm ranh giữa phần đất của bà Bé N với phần đất của gia đình bị đơn thì các bên xác định phần đất trước nhà của bà Bé N cặp lộ là 20m. Theo đơn tranh chấp đất ngày 27/7/2016, bà Bé Ny êu cầu Ủy ban nhân dân xã T1 giải quyết tranh chấp đất đai. Trong đơn bà Bé Nc ó ghi “…Nay tôi viết đơn này vì lý do trước đây năm 1991 tôi có mua thổ cư của ông Đỗ Thành N3 với diện tích (ngang là 20m chiều dài là 300m) ở phía sau giáp ranh với bà Hà Thị N4 là 10m. Khi mua tôi có làm giấy tờ hợp pháp và cũng có người làm chứng ký tên và có vẽ sơ đồ đất rõ ràng…”. Ngoài ra, theo biên bản hòa giải ngày 06/8/2016 của Tổ hòa giải Ban quản lý ấp thì bà Bé N cũng xác định diện đất nhận chuyển nhượng của ông N3 là mặt tiền 20m, dài 300m và mặt hậu 10m.

 

Công văn số 813/UBND-NC ngày 12/6/2019 của Ủy ban nhân dân huyện T2 và báo cáo số 199/BC-UBND ngày 10/6/2019 của Ủy ban nhân dân xã T1 xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Bé N vào năm 1997, căn cứ theo bản đồ địa chính năm 1993 cho người dân kê khai đăng ký (cấp đại trà), Hội đồng xét duyệt ở xã chưa kiểm tra vị trí, diện tích, chủ sử dụng đất tại thời điểm xét duyệt, cũng như chưa xem xét đối chiếu với giấy tờ mua bán vào năm 1991 giữa bà Bé N với vợ chồng ông Đỗ Thành N3. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Bé N đối với phần đất tranh chấp là không đúng đối tượng sử dụng đất.

Công văn số 256/UBND-ĐC ngày 27/5/2020 của UBND xã T1, huyện T2 về việc cung cấp chứng cứ xác định phần lối đi trên phần đất tranh chấp không phải là lối đi công công cộng mà là lối đi do gia đình bị đơn mở và sử dụng làm đường vận chuyển phục vụ sản xuất.

Quá trình giải quyết vụ án, bà Bé N chỉ dựa vào diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp và trích lục bản đồ địa chính khu đất để đòi quyền sử dụng đất nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh có quá trình sử dụng đất nên Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà Bé Nlà có căn cứ.

Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Bé N, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị Bé N, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Các đương sự thống nhất phần đất tranh chấp có tổng diện tích đo đạc thực tế là 2.214m2, bao gồm: diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc mộ1t0 phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019, do Ủy ban nhân dân huyện T2 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân bà Nguyễn Thị Bé N, nhưng người quản lý, sử dụng là bà Hà Thị N4, bà N4 chết, các con của bà N4 gồm Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 tiếp tục sử dụng đến nay. Đề nghị căn cứ vào biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 26/6/2018, ngày 21/5/2019, ngày 25/5/2020, biên bản định giá ngày 19/9/2019, mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019 làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án, không yêu cầu đo đạc, định giá lại tài sản.

[2.2] Các đương sự thống nhất bà Bé N là chủ sử dụng các thửa 1204, 1453, 16. Các thửa đất của bà Bé N có nguồn gốc trước đây do ông Đỗ Thành N3 quản lý và sử dụng. Năm 1991, ông N3 sang nhượng lại cho cá nhân bà Bé N các thửa đất trên. Do đó, quyền sử dụng đất tranh chấp là của cá nhân bà Bé N. Giáp ranh với phần đất của bà Bé N là các thửa đất 1205, 1206, 1444 tờ bản đồ số 6; thửa 17, 100, 225 tờ bản đồ số 9 do bà Hà Thị N4 đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2015, bà N4 chết nhưng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn do bà N4 đứng tên.

Bà Hà Thị N4(chết ngày 16/3/2015) có 02 người chồng tên Đỗ Văn L4(chết ngày 11/7/1966) và Hồ Văn T9 (chết ngày 30/01/2007). Nguồn gốc các thửa đất do bà N4 đứng tên là do cha của ông Đỗ Văn L4(ông L4 là người chồng trước của bà N4) tặng cho vợ chồng ông L4, bà N4. Sau khi bà N4 sinh bà T3 năm 1982 thì ông T9 cũng bỏ ra đi, không còn chung sống với bà N4 nữa. Cha mẹ của ông L4, ông T9, bà N4 đều đã chết trước bà N4.

Bà N4 và ông L4 có 05 người con chung gồm: Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L. Sau khi ông L4 chết thì bà N4 chung sống với ông T9. Bà N4 và ông T9 có 03 người con chung gồm: Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3. Ngoài ra, bà N4 không còn con riêng, con nuôi nào khác.

[2.3] Thực tế, các thửa đất của bà Bé N và bà N4 đều có nguồn gốc từ ông L4 (cha chồng của bà N4). Sau đó, ông L4 tặng cho vợ chồng bà N4 một phần đất thuộc các thửa 1205, 1206, 1444, 17, 100, 225. Phần đất còn lại thuộc thửa 1204, 1453, 16 thì ông L4 tặng cho ông N3; hai phần đất này giáp ranh với nhau, cùng giáp đường tỉnh 837. Đến năm 1991, ông N3chuyển nhượng lại cho bà Bé N. Tại thời điểm chuyển nhượng thì đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà N4 tiến hành đăng ký kê khai đăng ký và được cấp giấy ngày 01/10/1996, bà Bé Ntiến hành đăng ký kê khai, đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/10/1997, các đương sự được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với các thửa đất nêu trên, đến ngày 26/3/2014 bà Bé Nđược cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

[2.4] Qua kiểm tra, xác minh hồ sơ cấp giấy thì tại Công văn số 247/CNVPĐK ngày 24/6/2019, Công văn số 219/CNVPĐK của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai ngày 07/6/2019 xác định diện tích đất của bà Bé N và bà N4 trong quá trình sử dụng có sự chênh lệch là một phần do sai ranh đất trên thực địa và ranh theo bản đồ địa chính, một phần do chỉnh lý sai kênh hậu.

Theo Công văn số 1055/UBND-NC của Ủy ban nhân dân huyện T2 ngày 02/8/2018 thì tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Bé N, bà N4 là cấp theo đại trà, có đo đạc thành lập bản đồ toàn huyện nhưng không có xác định ranh giới cụ thể giữa các thửa đất đối với các thửa đất liền kề, chủ sử dụng đất liền kề không có ký vào biên bản ký giáp ranh.

Như vậy, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà N, bà N4 được dựa trên bản đồ không ảnh, không tiến hành đo đạc thực tế, không ký giáp ranh với các chủ sử dụng đất liền kề nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các bên không là căn cứ duy nhất để xác định định ranh giới mà Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và sự thay đổi hiện trạng đất để giải quyết vụ án là có căn cứ.

[2.5] Bà Bé N cho rằng phần đất tổng diện tích đất là 2.214m2 bao gồm diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) thuộc quyền sử dụng đất của bà. Trong quá trình sử dụng đất thì các con của bà N4 đã lấn đất như hiện nay. Tuy nhiên, việc xác định ranh của bà Bé N chỉ căn cứ vào diện tích được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ranh bản đồ địa chính để xác định phần đất tranh chấp là của bà, ngoài ra bà N không cung cấp được chứng cứ gì khác để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình. Hơn nữa, bà Bé N trình bày khi nhận chuyển nhượng đất từ ông N3 thì giữa các bên có lập giấy tờ mua bán, trong đó có vẽ sơ đồ thửa đất nhưng hiện đã thất lạc, bà không thể cung cấp cho Tòa án.

[2.6] Theo hồ sơ do Ủy ban nhân dân xã T1 lưu giữ do bà Bé N cung cấp giấy tay mua bán đất cho chính quyền địa phương thì giữa bà Bé N và ông N3 có lập giấy tay mua bán đất, có vẽ sơ đồ phần đất chuyển nhượng như bà Ntrình bày và trong đó có ghi chú: “Riêng phần đất nền bông nằm trong đất thổ cư bà Bé N phải chừa lại 220 mét vuông (hai hai không)”. Tại phần họa đồ vị trí thửa đất cũng thể hiện chiều ngang phần đất giáp lộ là 20 mét. Đến năm 1997, bà Bé N đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng12nhận quyền sử dụng đất bao gồm cả phần đất tranh chấp. Tuy nhiên, trong suốt quá trình kê khai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà Bé N cũng không trực tiếp sử dụng đất mà toàn bộ do phía gia đình bị đơn quản lý, sử dụng, bà Bé N cũng không tranh chấp hay khiếu nại về vấn đề này.

[2.7] Theo tờ cam kết ngày 22/12/1996 về việc đo đạc đất cắm ranh giữa phần đất của bà Bé N với phần đất của gia đình bị đơn thì các bên xác định phần đất trước nhà của bà Bé N cặp lộ là 20m. Theo đơn tranh chấp đất ngày 27/7/2016, bà Bé N yêu cầu Ủy ban nhân dân xã T1 giải quyết tranh chấp đất đai. Trong đơn bà Bé N có ghi “…Nay tôi viết đơn này vì lý do trước đây năm 1991 tôi có mua thổ cư của ông Đỗ Thành N3 với diện tích (ngang là 20m chiều dài là 300m) ở phía sau giáp ranh với bà Hà Thị N4 là 10m. Khi mua tôi có làm giấy tờ hợp pháp và cũng có người làm chứng ký tên và có vẽ sơ đồ đất rõ ràng…”. Ngoài ra, theo biên bản hòa giải ngày 06/8/2016 của Tổ hòa giải Ban quản lý ấp thì bà Bé N cũng xác định diện đất nhận chuyển nhượng của ông N3 là mặt tiền 20m, dài 300m và mặt hậu 10m. Như vậy, quá trình giải quyết tranh chấp, bà Bé N đã thừa nhận phần đất của bà có chiều ngang mặt tiền giáp lộ là 20 mét.

[2.8] Tại công văn số 813/UBND-NC ngày 12/6/2019 của Ủy ban nhân dân huyện T2 và báo cáo số 199/BC-UBND ngày 10/6/2019 của Ủy ban nhân dân xã T1 xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Bé N vào năm 1997, căn cứ theo bản đồ địa chính năm 1993 cho người dân kê khai đăng ký (cấp đại trà), Hội đồng xét duyệt ở xã chưa kiểm tra vị trí, diện tích, chủ sử dụng đất tại thời điểm xét duyệt, cũng như chưa xem xét đối chiếu với giấy tờ mua bán vào năm 1991 giữa bà Bé N với vợ chồng ông Đỗ Thành N3.

Do vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Bé N đối với phần đất tranh chấp là không đúng đối tượng sử dụng đất.

[2.9] Theo công văn số 256/UBND-ĐC ngày 27/5/2020 của UBND xã T1, huyện T2 về việc cung cấp chứng cứ xác định phần lối đi trên phần đất tranh chấp không phải là lối đi công công cộng mà là lối đi do gia đình bị đơn mở và sử dụng làm đường vận chuyển phục vụ sản xuất.

Công văn của Ủy ban nhân dân xã T1, Ủy ban nhân dân huyện T2 cũng phù hợp với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân huyện T2. Toàn bộ phần đất tranh chấp do phía gia đình bị đơn quản lý, sử dụng, trong quá trình sử dụng có trồng một số loại cây ăn trái, làm cầu ngang kênh hậu, xây dựng nhà, mồ mả ông bà nhưng bà Bé N không có ý kiến phản đối. Ngoài ra, tại phần ranh đất thì bà Bé Ncó làm hàng rào B40 cặp ranh từ kênh hậu đến nền mộ và bà Bé Ncó xây dựng một bức tường ngang nền mộ.

Như vậy, bà Bé N đã mặc nhiên thừa nhận ranh giới giữa các thửa đất của bà và bà N4. Sự thừa nhận này cũng phù hợp với hình thể cũng như kích thước thửa đất khi bà N nhận chuyển nhượng từ ông N3 theo tờ mua bán đất giữa các bên.

[2.10] Ngoài ra, những người làm chứng là những người sống lâu năm tại địa phương cũng xác định phần ranh đất tranh chấp là đường cộ lúa, có cầu bắc ngang Kênh Hậu là do gia đình bị đơn làm đường cộ, làm cầu và đã sử dụng hơn 20 năm nay. Trên phần đất tranh chấp còn có các loại cây trồng do phía gia đình bị đơn trồng và có một phần nhà của vợ chồng ông Hồ Anh V, bà Lê Thị Mỹ T7 xây cất và đã sử dụng ổn định. Hơn nữa, người trực tiếp chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Bé N là ông Đỗ Thành N3 cũng trình bày tại bản tự khai và biên bản xác minh ngày 27/6/2018, biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/5/2020, ông N3 xác định năm 1992 thì vợ chồng ông có bán cho bà Bé N một mảnh đất thổ cư có chiều ngang khoảng 20 mét, giáp lộ 837, ngang đuôi trong 07 mét, trong đó có chừa lại hai nền mộ, bán một lần duy nhất, hai bên có lập giấy tay có thể hiện hiện trạng đất và do bà N giữ, còn vị trí hiện bà N và các con bà N4 đang tranh chấp là của bà N4, gia đình bà N4 là người trực tiếp quản lý, sử dụng, ông không bán phần đất này cho bà Năm, còn lý do vì sao bà N được cấp giấy thì ông không biết.

Như vậy, lời khai bị đơn là phù hợp với lời khai người làm chứng, hồ sơ do Ủy ban nhân dân xã T1, Ủy ban nhân dân huyện T2, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện T2 nên yêu cầu phản tố của bị đơn có căn cứ, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là đúng pháp luật. Phía nguyên đơn bà Bé N khởi kiện chỉ căn cứ vào diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp và trích lục bản đồ địa chính khu đất để đòi quyền sử dụng đất nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh có quá trình sử dụng đất nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện là có căn cứ. Bà N cho rằng bị đơn chiếm hết bờ đi nên bà phải đi nhờ trên phần đất của ông S là không có căn cứ, không phù hợp kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/5/2020. Bởi lẽ, thực tế phần ranh bên bà N có lối đi và có cầu ngang kênh được sử dụng riêng biệt với phần đất do bị đơn sử dụng để đi vào các thửa đất của bà Bé N.

[2.11] Các nội dung khác của án sơ thẩm như tài sản trên đất, chi phí đo đạc, định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ: giữ nguyên.

[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng pháp luật. Bà Bé N kháng cáo nhưng không đưa ra tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Bé N, giữ nguyên án sơ thẩm.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Bé N là người cao tuổi nên được miễn án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; 

Căn cứ vào các Điều 26, Điều 34, Điều 35, Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 166, khoản 2 Điều 170, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Bé N; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2020/DS-ST ngày 08/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An cụ thể như sau:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé N đối với các bị đơn các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất tổng diện tích đất là 2.214m2 bao gồm diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An (theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019).

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 đối với nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé N.

2.1. Hủy một phần các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Bé N do Ủy ban nhân dân huyện T2 cấp số BP 588283, BP 588286, BP 588287, cấp cùng ngày 26/03/2014 đối với phần đất gồm diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An (theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019).

2.2. Các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 được tiếp tục quản lý, sử dụng phần đất phần đất gồm diện tích 256m2 thuộc một phần thửa 1204(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 800m2 thuộc một phần thửa 1453(B) tờ bản đồ số 06; diện tích 1.158m2 thuộc một phần thửa 16(A) tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Long An (theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019).

Các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 có trách nhiệm liên hệ cơ quan quản lý nhà nước về đất đai để được cấp, điều chỉnh diện tích đất của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng diện tích đất theo quy định của pháp luật.

Bà Nguyễn Thị Bé N không được quyền ngăn cản các ông, bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 thực hiện quyền của người được xác lập quyền sử dụng đất theo bản án, quyết định của Toà án.

Cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.

(Vị trí, tứ cận, diện tích, loại đất tất nêu trên theo mảnh trích đo địa chính số 42 – 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T2 phê duyệt vào ngày 08/8/2019).

3. Về chi phí đo đạc, định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ:

3.1. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé N phải chịu chi phí đo đạc, định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ 22.221.250 đồng (hai mươi hai triệu hai trăm hai mươi mốt nghìn hai trăm năm mươi đồng), đã nộp và chi phí xong.

3.2. Bị đơn bà Đỗ Thị C, Đỗ Thị C2, Đỗ Văn M, Đỗ Văn K1, Đỗ Chí L, Hồ Hoàng K2, Hồ Anh V, Hồ Thị T3 tự nguyện chịu chi phí thẩm định tại chỗ với số tiền 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng), đã nộp và chi phí xong.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị Bé N được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Bé N số tiền 2.089.072đồng (hai triệu không trăm tám mươi chín nghìn không trăm bảy mươi hai đồng) theo biên lai thu số 0003905 ngày 13/4/2018, số tiền 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0003975 ngày 07/6/2018 (do ông Vũ Khắc Đ1nộp thay), số tiền 2.213.850đồng (hai triệu hai trăm mười ba nghìn tám trăm năm mươi đồng) theo biên lai thu số 0004879 ngày 03/5/2019 (do ông Hồ Minh Kiều nộp thay), tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T2, tỉnh Long An.

Hoàn trả cho bà Đỗ Thị C, bà Đỗ Thị C2, ông Đỗ Văn M, ông Đỗ Văn K1, ông Đỗ Chí L, ông Hồ Hoàng K2, ông Hồ Thanh Vũ, bà Hồ Thị T3 1.886.350đồng (một triệu tám trăm tám mươi sáu nghìn ba trăm năm mươi đồng) theo biên lai thu số 0004842 ngày 08/4/2019 (do ông Đỗ Chí L đứng tên nộp) tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T2, tỉnh Long An.

5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Bé N được miễn án phí.

6. Về quyền yêu cầu thi hành án: Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định 16 tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 541/2020/DS-PT ngày 21/10/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:541/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về