Bản án 539/2020/HSST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 539/2020/HSST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số: 533/2020/TLST- HS ngày 03 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 555/2020/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Văn C, tên gọi khác: không. Sinh ngày 01/8/1991. ĐKHKTT: Xóm G, xã K, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn:

5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Lê Văn C; Con bà Vũ Thị H; Vợ Nguyễn Thị Kim D, đã ly hôn; Có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Tại Bản án số 21/2013/HSST ngày 07/3/2013 của Toà án nhân dân huyện huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong bản án ngày 07/3/2015.

+ Tại Bản án số 344/2015/HSST ngày 09/12/2015 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong bản án ngày 13/5/2018.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam C an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/9/2020 đến nay). Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1.Ông Tỗ Vỹ H1, sinh năm 1968. Vắng mặt.

Trú tại: Tổ 15, phường Q, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên 2. Ông Nguyễn Đức M, sinh năm 1960. Vắng mặt.

Trú tại: Tổ 11, phường Q, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 35 phút ngày 21/9/2020, tổ C tác của C an phường Q, thành phố TN tiến hành tuần tra kiểm soát tại khu vực đường Ga thuộc tổ 13, phường Quang Trung thì phát hiện một nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Khi tổ C tác tiếp cận kiểm tra thì bất ngờ người này thả từ tay trái xuống đất 01 gói giấy màu vàng. Quá trình kiểm tra, nam thanh niên khai tên là Lê Văn C và tự giác nhặt gói giấy màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng vừa thả từ tay trái xuống đất giao nộp cho tổ C tác (theo C khai đó là Heroine của C). Tổ C tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với C và niêm phong thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của Lê Văn C có khối lượng 0,132 gam, lấy toàn bộ cho vào bì niêm phong kí hiệu C1 gửi giám định .

Tại Bản kết luận giám định số 1229/KL-KTHS ngày 29/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu C1 thu giữ của Lê Văn C gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,132 gam Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn C khai nhận: Vào khoảng 14 giờ 10 phút ngày 21/9/2020, C đi bộ từ ngã ba Bắc Nam đến khu vực ngõ bên cạnh siêu thị HC thuộc phường Q, thành phố TN để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, C gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine được gói bằng giấy màu vàng với giá 100.000 đồng. C cầm gói Heroine ở trong bàn tay trái đi tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì tổ C tác của C an phường Quang Trung kiểm tra. Do sợ bị phát hiện nên C đã thả gói Heroine vừa mua được xuống đất. Sau đó, C đã tự giác nhặt gói Heroine giao nộp cho tổ C tác, tổ C tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì niêm phong ký hiệu C1 (bên trong có chứa ma túy) là mẫu hoàn lại sau giám định. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 535/CT-VKSNDTPTN, ngày 30/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Lê Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Lê Văn C khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã mô tả. Bị cáo thống nhất với tội danh và khung hình phạt như cáo trạng đã nêu, thừa nhận việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan, sai.

- Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Lê Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Lê Văn C từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong C1 (bên trong có chứa ma túy). Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận, trong lời nói sau cùng bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra C an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 35 phút ngày 21/9/2020, tại khu vực tổ 13, phường Q, thành phố TN, Lê Văn C đang có hành vi tàng trữ 0,132 gam Heroine mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ C tác C an phường Q, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Lê Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ. Nội dung điều luật như sau:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...c, Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Bị cáo đủ nhận thức để nhận biết được tác hại của ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử về các tội “Trộm cắp tài sản” và “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm gương mà vẫn tiếp tục phạm tội, điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, cần phải bị xử lý nghiêm khắc để giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không có tài sản gì nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Mức hình phạt vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp.

[4]. Vật chứng vụ án: Đối với 01 bì niêm phong chứa ma túy C (mẫu hoàn sau giám định) cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về các vấn đề khác: Bị cáo phải nộp án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vê nguôn gôc số Heroine bị thu giữ theo C khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực siêu thị HC thuộc phường Q, thành phố TN. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân , lai lịch của người đàn ông này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt Lê Văn C 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/9/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam các bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự , Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu C1 bên trong chứa ma túy mẫu hoàn sau giám định. trên phong bì có 02 dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Nguyễn Thành Tr, Ma Triệu V.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 69 ngày 02/11/2020 giữa C an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án: buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Án xử C khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 539/2020/HSST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:539/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về