Bản án 534/2017/HNGĐ-ST ngày 23/08/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 534/2017/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 255/2017/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2017 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 285/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trần Văn N, sinh năm 1957; địa chỉ: Thôn H, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn A, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 24 tháng 3 năm 2017 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là ông Trần Văn N trình bày:

1. Về hôn nhân:

Ông N và bà Nguyễn Thị H kết hôn với nhau vào năm 1982 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn ngày 18 tháng 8 năm 1997 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Sau cưới bà H về gia đình ông ăn ở, vợ chồng đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn H, xã L. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thống nhất trong việc làm kinh tế, không tin tưởng lẫn nhau nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình tham gia hòa giải nhiều lần nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện mà ngày càng trầm trọng. Bà H bỏ về nhà anh trai ở tại thôn A, xã L từ năm 2011, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay và không còn quan tâm nhau. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên ông đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn bà H.

2. Về con chung:

Ông N trình bày ông và bà H có hai con chung tên là Trần Văn P sinh năm 1983 và Trần Văn V sinh năm 1984. Hai con hiện đã trưởng thành, khỏe mạnh và có khả năng lao động nên ông không đề nghị Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung:

Ông N trình bày ông và bà H không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giảiquyết.

Bà Nguyễn Thị H là bị đơn trong vụ án, cho đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Nguyên đơn là ông Trần Văn N vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn là bà Nguyễn Thị H vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa ông N và bà H đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 43 đăng ký ngày 18 tháng 8 năm 1997 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự, tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn từ năm 2010. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thống nhất trong việc làm kinh tế, không tin tưởng nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình tham gia hòa giải song không có kết quả. Bà H về nhà anh trai ở tại thôn A, xã L từ năm 2011, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay và không còn quan tâm đến nhau. Bà H vẫn sinh sống tại nhà anh trai và biết việc ông N xin ly hôn song không trình bày quan điểm của mình. Điều đó chứng tỏ hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nay ông N xin ly hôn, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho ông N được ly hôn bà H.

[3]. Về con chung: Ông N và bà H có hai con chung tên là Trần Văn P sinh ngày 11/01/1983 và Trần Văn V sinh ngày 02/9/1984. Hai con hiện đã thành niên, khỏe mạnh bình thường và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Ông N trình bày ông và bà H không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà H chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Ông N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Ông Trần Văn N được ly hôn bà Nguyễn Thị H.

2. Về án phí: Ông Trần Văn N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000870 ngày 18 tháng 4 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hải Phòng. Ông Trần Văn N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 534/2017/HNGĐ-ST ngày 23/08/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:534/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về