Bản án 53/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN- TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 53/2020/HS-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai, vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc S - Sinh ngày 31/7/1995 tại Đà Nẵng. Trú tại: Tổ 19, phường H, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng;

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông;

Trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc T và bà Ông Thị H (đều còn sống); Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/5/2020 - Có mặt tại phiên tòa - Người tham gia tố tụng khác:

* Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

1/Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm 1995 (vắng mặt) Trú tại: Tổ 41, phường A, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng

2/Bà Ông Thị H, sinh năm 1966(vắng mặt) Trú tại: Số nhà 96 đường Đ, Tổ 19, phường H, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng.

* Người chứng kiến:

Ông Trịnh Văn Đ, sinh năm 1995 (vắng mặt) Trú tại: Tổ 12, phường K, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 10 phút ngày 17/5/2020, tại khu vực trước số nhà K432/38 đường V, phường K, quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng bắt quả tang Nguyễn Ngọc S đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Tấn T. Tang vật thu giữ của:

- Nguyễn Ngọc S:

+ Trong túi áo khoác bên phải 03 gói nylon bên trong chứa xác thảo mộc khô (ký hiệu S1);

+ 01 ĐTDĐ hiệu Redmi màu hồng gắn sim số: 0932524288 (ký hiệu S2);

+ 01 xe mô tô hiệu Airblade màu đỏ đen, BKS: 43G1-41487, SK: 6329K236390, SM: JF63E2687075; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Ngọc S;

- Nguyễn Tấn T: 01 ĐTDĐ hiệu Nokia, màu đen, gắn sim số: 0909195101 (ký hiệu A1);

Vào lúc 22 giờ cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Ngọc S tại nhà số 96 đường Đ, thuộc tổ 19 phường H, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng, thu giữ trong hộc bàn máy vi tính trong phòng ngủ của Sơn gồm:

+ 01 hộp giấy bên trong chứa 05 gói nylon loại nhỏ chứa xác thảo mộc khô;

01 gói nylon loại lớn bên trong chứa xác thảo mộc khô và nhiều xác thảo mộc khô (ký hiệu S3);

+ 01 cân điện tử có dòng chữ Kitchen scale;

+ 30 vỏ bao nylon (KT04x8cm);

+ 5.000.000 đồng.

Kết luận giám định số 160/GĐ-MT ngày 25/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an TP.Đà Nẵng kết luận: Thảo mộc khô trong các gói niêm phong ký hiệu S1, S3 gửi giám định là ma túy, loại cần sa; khối lượng mẫu S1: 15,357gam; S3: 319,58 gam.

Qua điều tra, Nguyễn Ngọc S khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy như sau:

Ngày 14/5/2020 thông qua mạng xã hội Telegram, Nguyễn Ngọc S sử dụng tài khoản “Tâm Nè” nhắn tin đến tài khoản tên “Hồng Chí Cam” của một thanh niên (không rõ lai lịch) hỏi mua 8.000.000 đồng ma túy loại cần sa với mục đích để sử dụng và bán lại kiếm lời thì người này đồng ý. Đến khoảng 10 giờ ngày 15/5/2020, có một thanh niên (không rõ lai lịch) đi xe mô tô hiệu Exciter không rõ biển kiểm soát đến khu vực trước nhà S tại nhà số 96 đường Đ, Tổ 19 phường H, Q.Cẩm Lệ, TP.Đà Nẵng giao cho S 01 hộp giấy có chứa cần sa và S trả 8.000.000 đồng như thỏa thuận. Sau khi mua ma túy cần sa, S cất giữ trong hộc bàn máy vi tính trong phòng ngủ của mình, rồi tiếp tục mua cân điện tử và vỏ bao nylon để phân chia ma túy bán lại cho người khác. Nguyễn Ngọc S đã bán trái phép chất ma túy cho khoảng 04-05 người nhưng không nhớ rõ thời gian, địa điểm cụ thể, lai lịch và đặc điểm của người mua, mỗi lần bán giá 01 gói ma túy cần sa từ 200.000 đồng đến 250.000 đồng, trong đó nhớ 02 lần cụ thể sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 14 giờ ngày 17/5/2020, khi S đang ở nhà thì Nguyễn Tấn T sử dụng điện thoại sim số 0909195101 gọi đến số 0932524288 của S hỏi mua 01 gói ma túy cần sa giá 500.000 đồng, S đồng ý bán và hẹn đến khu vực trước quán cà phê số 596 đường L, TP.Đà Nẵng để giao dịch. S lấy ma túy phân ra thành 09 gói nhỏ, lấy 01 gói đem đi bán cho T, số còn lại S cất trong hộp giấy để trong hộc bán máy vi tính. Sau đó, S điều khiển xe mô tô hiệu Airblade BKS số 43G1-41487 đến điểm hẹn bán ma túy cho T.

Lần thứ hai: Vào khoảng 19 giờ 40 phút ngày 17/5/2020, T tiếp tục sử dụng điện thoại liên lạc với S hỏi mua 03 gói ma túy cần sa với giá 500.000 đồng thì S đồng ý bán và hẹn đến khu vực Kiệt 432 đường V, phường K, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng để giao dịch. Sau đó, S lấy 03 gói cần sa đã phân ra trước đó cất giữ trong túi áo khoác bên phải, điều khiển xe mô tô trên đến điểm hẹn, trong lúc S chuẩn bị lấy 03 gói ma túy cần sa ra bán cho T thì bị bắt quả tang như trên.

Nguyễn Ngọc S thu lợi bất chính từ việc bán trái phép chất ma túy số tiền 1.000.000 đồng, số tiền này S đã tiêu xài cá nhân hết. Tiến hành thử test ma túy Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Tấn T cho kết quả âm tính.

Với nội dung trên tại bản Cáo trạng số 51/CT-VKS-NHS ngày 04/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b Khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S mức án từ 07 đến 08 năm tù.

Về vật chứng:

- Đề nghị tiêu hủy: 03 gói nylon bên trong chứa xác thảo mộc khô (ký hiệu S1); 01 hộp giấy bên trong chứa 05 gói nylon loại nhỏ chứa xác thảo mộc khô; 01 gói nylon loại lớn bên trong chứa xác thảo mộc khô và nhiều xác thảo mộc khô (ký hiệu S3) - (tất cả mẫu hoàn trả được niêm phong bằng 01 bì giấy đựng mẫu ký hiệu S1, S3 và toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả có đóng dấu Phòng Kỹ thuật hình sự, chữ ký của giám định viên); 01 cân điện tử có dòng chữ Kitchen scale; 30 vỏ bao nylon (KT: 04x8cm); 01 sim điện thoại số 0932524288 thu giữ của Nguyễn Ngọc S do sử dụng liên lạc mua bán trái phép chất ma túy;

-Đề nghị tiêu hủy:01 sim điện thoại số 0909195101 thu giữ của Nguyễn Tấn T do sử dụng liên lạc mua bán trái phép chất ma túy;

ề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 ĐTDĐ hiệu Redmi màu hồng (ký hiệu S2); 01 xe mô tô hiệu Airblade màu đỏ đen, BKS số: 43G1-41487, SK: 6329K236390, SM: JF63E2687075 thu giữ của Nguyễn Ngọc S kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Ngọc S.

ề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 ĐTDĐ hiệu Nokia, màu đen (ký hiệu A1) thu giữ của Nguyễn Tấn T.

- Đề nghị trả lại cho bà Ông Thị H (mẹ ruột của bị cáo S) số tiền 5.000.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội của Nguyễn Ngọc S (theo Giấy ủy nhiệm chi ngày 10/8/2020 tại Kho bạc nhà nước Ngũ Hành Sơn).

Đi với Nguyễn Tấn T khai nhận hai lần mua trái phép chất ma túy của Nguyễn Ngọc S với mục đích để sử dụng, nhưng lần đầu không thu giữ được tang vật, lần bị bắt quả tang hành vi chưa cấu thành tội phạm nên không đủ cơ sở xử lý, qua thử test ma túy cho âm tính, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn đã thông báo về địa phương nơi T cư trú để quản lý, giáo dục là đúng quy định của pháp luật.

Đi với nam thanh niên sử dụng tài khoản Telegram tên “Hồng Chí Cam” và nam thanh niên giao ma túy cần sa cho S hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Nhng người tham gia phiên tòa không có ý kiến gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Ti phiên tòa vắng mặt những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Tấn T, bà Ông Thị H; người chứng kiến là ông Trịnh Văn Đ không có lý do nhưng trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của ông T, bà H, ông Đ. Do đó, sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292; 296 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[1.2] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; người chứng kiến không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Ti phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc S đều khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

[2.1.1] Khoảng 20 giờ 10 phút ngày 17/5/2020, tại khu vực trước số nhà K432/38 đường V, phường K, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn bắt quả tang Nguyễn Ngọc S đang có hành vi bán trái phép 15,357 gam ma túy loại cần sa với giá 500.000 đồng cho Nguyễn Tấn T thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng bắt quả tang.

Trước đó, S đã một lần bán trái phép chất ma túy cần sa cho 04 - 05 thanh niên (không rõ lai lịch) và khoảng 14 giờ ngày 17/5/2020, tại khu vực trước quán cà phê số 596 đường L, TP.Đà Nẵng, S đã bán trái phép 01 gói ma túy cho Nguyễn Tấn T với giá 500.000 đồng, thu lợi bất chính 1.000.000 đồng. Ngoài ra, còn thu giữ tại chỗ ở của Nguyễn Ngọc S 319,58 gam ma túy loại cần sa với mục đích để bán nhưng chưa bán được.

Như vậy, tổng khối lượng ma túy là cần sa mà Nguyễn Ngọc S phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy là 334,937gam.

[2.1.2] Hành vi trên của bị cáo Nguyễn Ngọc S đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 51/CT-VKS-NHS ngày 04/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Ngọc S thì thấy:

Hành vi phạm tội của Nguyễn Ngọc S là nghiêm trọng. Mặc dù biết rõ tác hại của ma túy và pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố tình mua bán trái phép ma túy nhiều lần. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm tới chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe con người. Hành vi trên của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an của xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân trên địa bàn TP. Đà Nẵng nói chung và trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn nói riêng; hành vi phạm tội của bị cáo Sơn là rất nguy hiểm, xem thường pháp luật, bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là phạm tội nhiều lần. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm minh, xử cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[2.3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; cha bị cáo là người có công cách mạng nên áp dụng điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình.

[2.4] Đối với Nguyễn Tấn T khai nhận hai lần mua trái phép chất ma túy của Nguyễn Ngọc S với mục đích để sử dụng, nhưng lần đầu không thu giữ được tang vật, lần bị bắt quả tang hành vi chưa cấu thành tội phạm nên không đủ cơ sở xử lý, qua thử test ma túy cho âm tính, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn đã thông báo về địa phương nơi T cư trú để quản lý, giáo dục là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không đề cấp giải quyết.

Đi với nam thanh niên sử dụng tài khoản Telegram tên “Hồng Chí Cam” và nam thanh niên giao ma túy cần sa cho S hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp.

[2.5] Xét về vật chứng:

-Đối với 03 gói nylon bên trong chứa xác thảo mộc khô (ký hiệu S1); 01 hộp giấy bên trong chứa 05 gói nylon loại nhỏ chứa xác thảo mộc khô; 01 gói nylon loại lớn bên trong chứa xác thảo mộc khô và nhiều xác thảo mộc khô (ký hiệu S3) - (tất cả mẫu hoàn trả được niêm phong bằng 01 bì giấy đựng mẫu ký hiệu S1, S3 và toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả có đóng dấu Phòng Kỹ thuật hình sự, chữ ký của giám định viên); 01 cân điện tử có dòng chữ Kitchen scale; 30 vỏ bao nylon (KT: 04x8cm) thu giữ của Nguyễn Ngọc S, tất cả là vật chứng của vụ án. Xét cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

-Đối với sim điện thoại số: 0932524288 thu giữ của Nguyễn Ngọc S, sim này bị cáo S gọi mua bán ma túy để thực hiện hành vi phạm tội, không còn sử dụng được. Xét cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

-Đối với sim điện thoại số 01 sim điện thoại số 0909195101 thu giữ của Nguyễn Tấn T, sim này T gọi mua bán ma túy, không còn sử dụng được. Xét cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

-Đối với: 01 ĐTDĐ hiệu Redmi màu hồng (ký hiệu S2); 01 xe mô tô hiệu Airblade màu đỏ đen, BKS số: 43G1-41487, SK: 6329K236390, SM: JF63E2687075 thu giữ của Nguyễn Ngọc S kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Ngọc S. S đã sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, đây là tài sản liên quan đến hành vi phạm tội. Xét thấy cần tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

-Đối với: 01 ĐTDĐ hiệu Nokia, màu đen thu giữ của Nguyễn Tấn T. T đã sử dụng để thực hiện hành vi mua ma túy đây là tài sản liên quan đến hành vi phạm tội. Xét thấy cần tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với số tiền 5.000.000 đồng thu giữ được tại nhà Nguyễn Ngọc S, đây là tiền của bà Ông Thị H là mẹ ruột của S do không liên quan đến hành vi phạm tội của S. Do đó, Hội đồng xét xử cần trả lại cho bà Ông Thị H số tiền 5.000.000 đồng là có căn cứ. (theo Giấy ủy nhiệm chi ngày 10/8/2020 tại Kho bạc nhà nước Ngũ Hành Sơn).

Tất cả vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/8/2020.

[2.6] Hi đồng xét xử xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn tại phiên tòa về căn cứ các điều luật áp dụng cũng như đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình.

[2.7]Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Ngọc S phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc S 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 17/5/2020.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 03 gói nylon bên trong chứa xác thảo mộc khô (ký hiệu S1); 01 hộp giấy bên trong chứa 05 gói nylon loại nhỏ chứa xác thảo mộc khô; 01 gói nylon loại lớn bên trong chứa xác thảo mộc khô và nhiều xác thảo mộc khô (ký hiệu S3) - (tất cả mẫu hoàn trả được niêm phong bằng 01 bì giấy đựng mẫu ký hiệu S1, S3 và toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả có đóng dấu Phòng Kỹ thuật hình sự, chữ ký của giám định viên); 01 cân điện tử có dòng chữ Kitchen scale; 30 vỏ bao nylon (KT: 04x8cm); 01 sim điện thoại số 0932524288 thu giữ của Nguyễn Ngọc S do sử dụng liên lạc mua bán trái phép chất ma túy;

-Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 sim điện thoại số 0909195101 thu giữ của Nguyễn Tấn T do sử dụng liên lạc mua bán trái phép chất ma túy;

-Tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 ĐTDĐ hiệu Redmi màu hồng (ký hiệu S2); 01 xe mô tô hiệu Airblade màu đỏ đen, BKS số: 43G1-41487, SK: 6329K236390, SM: JF63E2687075 thu giữ của Nguyễn Ngọc S kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Ngọc S.

-Tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 ĐTDĐ hiệu Nokia, màu đen (ký hiệu A1) thu giữ của Nguyễn Tấn T - Tuyên trả lại cho bà Ông Thị H (mẹ ruột của bị cáo S) số tiền 5.000.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội của Nguyễn Ngọc S.

Tất cả các vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/8/2020 và Giấy ủy nhiệm chi ngày 10/8/2020 tại Kho bạc nhà nước Ngũ Hành Sơn.

Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Ngọc Sơn phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 21/9/2020.

Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:53/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về