Bản án 53/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 53/2020/HS-ST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2020/TLST-HS ngày 27/3/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2020/HSST-QĐ ngày 24/4/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 28/4/2000 tại thành phố R, tỉnh Kiên Giang; Nơi cư trú: Số 09 đường S, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá (học vấn): 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tấn T và bà Trần Thị T1; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2019 đến nay. (có mặt)

- Bị hại: Anh Nguyễn Thanh S, sinh năm 1995 (tên gọi khác: Tí Nị) (có mặt)

Nơi cư trú: Số 10/11 đường C, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. (Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Kiên Giang)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị T, sinh năm 1979 (có mặt)

Nơi cư trú: Số 09 đường S, phường V, thành phố R, Kiên Giang.

- Người làm chứng:

NLC1, sinh năm 1996 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 54/26A đường B, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

NLC2, sinh năm 1979 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 18 đường C, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

NLC3, sinh năm 1979 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 18 đường C, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc T trước đó từng bị Nguyễn Thanh S dùng hung khí chém gây thương tích tại tiệm game bắn cá của NLC1; hiện vụ án đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành khởi tố. Do có mâu thuẫn từ trước nên vào khoảng 12 giờ 10 phút, ngày 10/8/2019 khi T nhìn thấy S đang chơi game bắn cá tại nhà của NLC2, số 18 đường C, phường V, thành phố R thì nảy sinh ý định muốn đánh S để trả thù. T liền điện thoại cho một người bạn quen ngoài xã hội tên L (chưa rõ tên thật, địa chỉ) kể lại sự việc mâu thuẫn với S và kêu L đến tiếp đánh S thì L đồng ý. Sau đó, T điện thoại cho NLC1 nói S đang ở tiệm game bắn cá tại số 18 đường C, nhưng T không rủ NLC1 lại đánh S. Sau đó, T đến tiệm game của NLC1 ở số 16 đường C, phường V, thành phố R (T đang làm nhân viên tiệm game), T lấy một cây dao tự chế bằng kim loại, dài khoảng 50cm, lưỡi sắc bén mà T đã cất giấu sẵn từ trước đó; khi T lấy dao thì NLC1 không có ở tiệm game. Lấy dao xong, T quay lại tiệm game ở số 18 đường C thì L cũng đến nơi; cả hai đi vào tiệm game, T đi trước, L đi sau. T nhìn thấy S đang ngồi chơi game nên lập tức đi đến chỗ S ngồi và cầm dao tự chế chém từ trên xuống trúng vào tay trái của S một nhát gây thương tích. L cũng lấy từ trong người ra một vật giống như súng tự chế chỉ về hướng S bắn nhưng không nổ. Bị chém, S liền bỏ chạy vào trong phòng của chủ tiệm trốn và chốt cửa lại. T và L cũng bỏ ra ngoài thì gặp Trung đang đi đến nên cả ba người tiếp tục vào tiệm game số 18 đường C tìm S nhưng không mở được cửa phòng nên cả ba đi ra tự về riêng. T cầm cây dao đi ngang khu đất trống trên đường C thì ném bỏ cây dao. Đối với S bị thương tích tự đi điều trị và làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Vật chứng vụ án không thu hồi được: Đối với hung khí là cây dao tự chế bằng kim loại, dài khoảng 50cm, lưỡi sắc bén, sau khi gây thương tích cho bị hại thì bị cáo đã ném bỏ; cơ quan điều tra không tìm được.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 589/KL-PY, ngày 31/10/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Kiên Giang kết luận về thương tích của Nguyễn Thanh S như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Sẹo xơ cứng cẳng tay trái; đứt (gãy) 1/3 giữa xương trụ cẳng tay trái.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 16%

3. Vật gây thương tích: Vật sắc.

4. Về thẩm mỹ và chức năng bộ phận cơ thể: Thương tích vùng cẳng tay trái không gây ảnh hưởng thẩm mỹ và không gây hạn chế chức năng bộ phận cơ thể.

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo và bị hại không có khiếu nại đối với kết luận giám định nêu trên.

Ngày 05/11/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; khởi tố bị can đối với T để điều tra. Ngày 09/12/2019 T bị bắt tạm giam cho đến nay.

Bản cáo trạng số 77/CT-VKS ngày 27/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội “Cố ý gây thương tích” và đề nghị:

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Ngọc T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Đối với hung khí là cây dao tự chế bằng kim loại, dài khoảng 50cm, lưỡi sắc bén, sau khi gây thương tích cho bị hại thì bị cáo đã ném bỏ, cơ quan điều tra không tìm được; do đó, không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét.

- Về phần dân sự: Đề nghị ghi nhận việc bị hại và bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong tổng số tiền 5.000.000 đồng.

Bị hại Nguyễn Thanh S xác định đã nhận của bị cáo T tiền bồi thường chi phí điều trị thương tích là 5.000.000 đồng, ngoài ra anh không yêu cầu bồi thường thêm khoản nào khác. Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo anh yêu cầu xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo và áp dụng hình phạt theo quy định pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Trần Thị T xác định bà đã bồi thường thiệt hại cho đại diện gia đình bị hại số tiền 5.000.000 đồng; bà không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại số tiền này cho bà.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, nhận thức được hành vi của bị cáo là sai trái, mong được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình tiến hành tố tụng những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc T khai nhận hành vi cố ý gây thương tích của bị cáo đúng với nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Cụ thể: Vào khoảng 12 giờ 10 phút, ngày 10/8/2019, tại tiệm game bắn cá nhà số 18 đường C, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang, bị cáo do có mâu thuẫn từ trước với anh Nguyễn Thanh S nên khi nhìn thấy S đang chơi game trong tiệm thì bị cáo nảy sinh ý định đánh S để trả thù; bị cáo còn chủ động rủ thêm một người bạn tên L (chưa rõ tên thật, địa chỉ) để cùng thực hiện hành vi. Sau đó, bị cáo và L đi vào tiệm game, bị cáo thấy anh S đang ngồi chơi game nên lập tức cầm dao tự chế đã chuẩn bị sẵn từ trước đó chém từ trên xuống, anh S đưa tay trái lên đỡ nên bị chém vào tay trái một nhát gây thương tích.

Xét thấy hành vi của bị cáo là dùng hung khí tấn công người khác; bị cáo phải nhận thức rõ hành vi này có thể gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Hay nói cách khác chính hành vi của bị cáo là nguyên nhân gây ra thương tích cho bị hại.

Theo bản kết luận giám định pháp y số: 589/KL-PY, ngày 31/10/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Kiên Giang đã kết luận về tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của bị hại Nguyễn Thanh S là: 16%.

Về đặc điểm của hung khí mà bị cáo sử dụng để gây thương tích cho bị hại là dao tự chế, bằng kim loại dài khoảng 50cm, lưỡi sắc bén. Theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 và điểm a tiểu mục 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003, của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì hung khí mà bị cáo sử dụng được xác định là hung khí nguy hiểm.

Xét thấy, bị cáo nhận tội do thực sự thành khẩn, lời khai nhận của bị cáo về hành vi và các tình tiết của vụ án phù hợp với lời khai của bị hại và người làm chứng, phù hợp với kết luận giám định pháp y của Trung tâm Pháp y tỉnh Kiên Giang, cùng với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Theo đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc T đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” thì “bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm”, hành vi của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 “Dùng hung khí nguy hiểm” của Điều luật nêu trên. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá truy tố bị cáo với tội danh và điều luật viện dẫn trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo phạm tội nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật và gây mất trật tự, trị an xã hội, gây hoang mang lo lắng, bất bình trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo khi thực hiện tội phạm có ý thức và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo đủ khả năng nhận thức được hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra; tuy nhiên chỉ vì muốn trút cơn giận của bản thân bằng cách dùng bạo lực, cùng ý thức xem thường pháp luật, bị cáo đã bất chấp hậu quả, xem thường sức khỏe của bị hại, cố ý thực hiện hành vi phạm tội, gây ra thương tích cho bị hại với tỷ lệ thương tật ở mức trung bình. Do đó cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong với tổng số tiền 5.000.000 đồng. Bị hại không có yêu cầu bồi thường nào khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên có căn cứ cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo cùng bị hại và đại diện gia đình của bị cáo xác định các bên đã thực hiện xong thỏa thuận bồi thường thiệt hại; xét thấy đây là sự tự nguyện bồi thường thiệt hại của bị cáo nên đủ cơ sở áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 cho bị cáo theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Xét về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên được xem là có nhân thân tốt, đây là những đặc điểm cần được xem xét khi quyết định hình phạt.

Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đủ điều kiện để được áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, nằm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng Điều 54 để xem xét, quyết định hình phạt đối với bị cáo theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo; sau khi nghị án Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T hình phạt tù có thời hạn, giam giữ bị cáo trong một thời gian nhất định để giáo dục, răn đe, cải tạo bị cáo, qua đó đảm bảo được tính phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với hung khí là 01 cây dao tự chế, bằng kim loại dài khoảng 50cm, lưỡi sắc bén; sau khi gây thương tích cho bị hại thì bị cáo đã ném bỏ, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không gặp nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 01 (một) năm tù; Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam là ngày 09/12/2019.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:53/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về