Bản án 53/2020/DS-ST ngày 27/07/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 53/2020/DS-ST NGÀY 27/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

 Trong ngày 27 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:103/2020/TLST-DS, ngày 23 tháng 4 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-DS, ngày 22 tháng 6 năm 2020 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị u, sinh năm: 1971; địa chỉ cư trú: Ấp Ngọc An, xã Ngọc Chúc, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (có mặt)

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1949; địa chỉ cư trú: Ấp Ngọc An, xã Ngọc Chúc, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/01/2020, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn Chị Đặng Thị u trình bày:

Vào khoảng năm 2018 chị có bán thức ăn chăn nuôi cho Bà Nguyễn Thị H nhiều lần, Bà H nợ chị tổng số tiền là 57.028.000 đồng (năm mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng), sau đó Bà H có trả cho chị được số tiền là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng). Đến ngày 06/3/2019 chị và Bà H kết toán nợ lại với nhau, Bà H còn nợ lại chị số tiền gốc là 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng). Chị có đến gặp Bà H nhiều lần để yêu cầu bà trả số tiền trên nhưng Bà H cứ hẹn lần lựa mà đến nay vẫn không trả cho chị. Sự việc trên chị có làm đơn yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết, tại biên bản hòa giải ngày 19/11/2019 Bà H thừa nhận còn nợ chị số tiền gốc là 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng) và yêu cầu được trả dần nhiều lần cho chị nhưng chị không đồng ý.

Nay chị U khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc Bà Nguyễn Thị H phải trả cho chị số tiền gốc mua thức ăn còn thiếu là 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng), chị không yêu cầu tính lãi.

Tại bản tự khai ngày 20/5/2020/ biên bản hòa giải ngày 18/6/2020, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn Bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà H xác định trước đây bà có hùn vốn xây dựng chuồng trại chăn nuôi vịt với người cháu tên là Khiêm (bà không biết rõ họ tên và địa chỉ ở đâu) tại nhà của bà. Trong quá trình làm ăn thì anh Kh mới là người trực tiếp mua thức ăn chăn nuôi của Chị Đặng Thị u chứ bà không có mua. Sau đó anh Kh đã bỏ đi khỏi địa phương thì bà mới biết anh Kh mua thiếu tiền thức ăn chăn nuôi của nhiều người, trong đó có thiếu chị U số tiền là 57.028.000 đồng (năm mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng). Hiện nay bà không biết anh Kh ở đâu, làm gì, bà chỉ nghe nói là anh Kh đã đi nước ngoài.

Khi anh Kh đi thì có để lại phần chuồng trại xây dựng trên đất của bà và bà cũng tiếp tục sử dụng để chăn nuôi, từ đó bà mới đồng ý trả thay cho anh Kh số tiền mà anh Kh mua thức ăn chăn nuôi thiếu của chị U là 57.028.000 đồng (năm mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng).

Vào ngày tháng năm nào bà không nhớ rõ, bà đã trả cho chị U được số tiền là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng), còn lại 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng) do bà làm ăn thua lỗ nên đến nay chưa trả cho chị U.

Bà thừa nhận hiện nay bà còn thiếu chị U số tiền mua thức ăn chăn nuôi là 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng). Nay bà cũng đồng ý trả cho chị U số tiền trên nhưng hiện nay bà không có khả năng trả một lần mà xin được trả dần mỗi tháng là 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) cho đến khi dứt nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa chị U và Bà H là “Tranh chấp hợp đồng mua bán”. Cụ thể là chị U yêu cầu Bà H phải trả cho chị tiền gốc mua thức ăn chăn nuôi còn thiếu là 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng) nên quan hệ tranh chấp trên được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là Bà H có nơi cư trú tại huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

[2] Xét về nội dung tranh chấp:

Vào năm 2018 chị U có bán thức ăn chăn nuôi cho cháu của Bà H là anh Kh (người cùng hùn vốn làn ăn với Bà H thường) nhiều lần với số tiền là 57.028.000 đồng (năm mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng). Sau đó anh Kh đã bỏ địa phương đi đâu, làm gì không rõ, Bà H là người sử dụng chuồng trại chăn nuôi do anh Kh để lại và cũng đồng ý thay anh Kh trả cho chị U số tiền trên. Bà H đã trả cho chị U được số tiền là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng), còn nợ lại 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng).

Nay chị U yêu cầu Bà H trả cho chị số tiền gốc là 27.028.000 đồng (hai mươi bảy không trăm hai mươi tám nghìn đồng) và không yêu cầu tính lãi.

Còn Bà H cũng đồng ý trả nợ thay cho cháu của bà và thừa nhận hiện nay bà còn nợ chị U số tiền là 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng). Nay Bà H đồng ý trả số tiền trên cho chị U nhưng không có khả năng trả một lần mà xin được trả dần mỗi tháng 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) cho đến khi dứt nợ.

Xét yêu cầu của chị U yêu cầu Bà H trả cho chị số tiền gốc là 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng) và không yêu cầu tính lãi là có cơ sở chấp nhận - Bởi lẽ trong quá trình giải quyết vụ kiện cũng như toàn bộ các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ kiện và tại phiên tòa Bà H đều thừa nhận còn nợ chị U số tiền trên và cũng đồng ý trả nhưng xin được trả dần. Xét yêu cầu xin trả dần của Bà H là không có cơ sở chấp nhận bởi việc từ năm 2019 cho đến nay mà không thanh toán nợ cho chị U , nếu tiếp tục kéo dài việc thanh toán nợ sẽ làm thiệt thòi đến quyền lợi chính đáng của chị U .

Từ những cơ sở nhận định và phân tích trên Hội đồng xét xử nghị nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử buộc Bà Nguyễn Thị H phải có nghĩa vụ trả cho Chị Đặng Thị u số tiền gốc là 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng).

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Yêu cầu của chị U được chấp nhận nên không phải chịu án phí. Hoàn trả lại cho chị U số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003245 ngày 23/4/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch trên số tiền 27.028.000 đồng x 5% = 1.351.400 đồng (một triệu ba trăm năm mươi mốt nghìn bốn trăm đồng) Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 266; Điều 269; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 11; khoản 1 Điều 440 của Bộ luật dân sự;

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Chị Đặng Thị u đối với Bà Nguyễn Thị H.

Xử buộc Bà Nguyễn Thị H phải có nghĩa vụ trả cho Chị Đặng Thị u số tiền gốc là 27.028.000 đồng (hai mươi bảy triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng).

2. Án phí:

Hoàn trả lại cho Chị Đặng Thị u số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 800.000đồng (tám trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003245 ngày 23/4/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang..

Bà Nguyễn Thị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 1.351.400 đồng (một triệu ba trăm năm mươi mốt nghìn bốn trăm đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Báo cho các bên đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/7/2020

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2020/DS-ST ngày 27/07/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu:53/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về