Bản án 53/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 53/2019/HS-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 19 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 49/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ tên: Trần Văn C, sinh năm 1975, tên gọi khác: không; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố P, thị trấn C, huyện T, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lái tàu; trình độ văn hoá: 6/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Kim C, sinh năm 1930 (đã chết) và bà Trần Thị T, sinh năm 1930; có vợ Trịnh Thị T, sinh năm 1982 và có 04 con (con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Quyết định số 1127 ngày 27/6/2011 Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện T, tỉnh Nam Định quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh 12 tháng. Bản án số 70/2014/HSST ngày 26/12/2014 của Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong hình phạt ngày 29/4/2016; bị cáo bị bắt quả tang ngày 25/12/2018, bị tạm giữ, tạm giam từ đó đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh L Văn Đ, sinh năm 1985, địa chỉ: Thôn B, xã N, huyện N, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt)

2. Anh Đặng Văn L, sinh năm 1975, địa chỉ: Thôn V, xã G, huyện S, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt)

* Người chứng kiến:

1. Ông Phan Đình X, sinh năm 1952. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 4, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

2. Anh Phạm Văn T, sinh năm 1988. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 1, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 25 phút ngày 25/12/2018 tại khu vực trước cửa số nhà 36, tổ dân phố số 2, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, tổ công tác Công an phường T, thành phố B bắt quả tang Trần Văn C, có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 02 (hai) gói giấy bạc đều có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng chứa chất cục bột màu trắng nghi là ma túy Heroin, thu giữ tại nền đất cạnh chỗ C đứng do C thả từ tay trái xuống đất. Ngoài ra còn tạm giữ của Trần Văn C: 01 xe mô tô Biển kiểm soát 98M1- 5530 nhãn hiệu ROONEY màu đỏ; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung j5 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen; 01 chiếc ví da màu nâu bên trong có 200.000đồng; 01 giấy phép lái xe hạng A1; 01 thẻ căn cước công dân; 01 thẻ ngân hàng BIDV đều mang tên Trần Văn C.

Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng nghi ma tuý vào 01 phong bì thư, đưa Cai về Công an phường M lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, bàn giao Trần Văn C cùng vật chứng cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B giải quyết.

Kết luận giám định số 1754 ngày 27/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Chất cục bột màu trắng đựng trong 2 gói giấy bạc đều có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng đều là chất ma tuý Heroine, có tổng khối lượng 0,193gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn C khai nhận như sau: C lái tầu thuê cho ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1958 ở số nhà 55, đường V, phường H, thành phố B. Chiều ngày 24/12/2018 Cai có lái tàu đến khu vực gần cầu C, huyện N để xuống đất, đến trưa ngày 25/12/2018 Cai nảy sinh ý định mua ma tuý để sử dụng nên Cai vào công trường khai thác đất gần đó hỏi mượn xe mô tô BKS 98M1-5530 của anh L Văn Đ, sinh năm 1985 ở thôn B, xã N, huyện N, tỉnh Bắc Giang để đi có việc. Sau đó C điều khiển xe mô tô đi đến thành phố B mua ma tuý sử dụng. Khi đi đến khu vực bờ đê Sông Thương thuộc thành phố B, C hỏi thăm người đi đường thì có người chỉ xuống dốc gần bờ đê thuộc phường T hỏi mua ma tuý. C vào 1 nhà gần đó hỏi mua được 02 gói ma tuý Heroine giá 200.000đồng của một người phụ nữ không quen biết. Sau khi mua được ma tuý C cầm ở tay trái lên xe mô tô để đi về xã C, khi đi đến khu vực trước cửa số nhà 36, tổ dân phố số 2, phường M, thành phố B thì bị tổ công tác Công an phường T bắt quả tang, do sợ hãi nên C đã thả rơi 02 gói ma tuý vừa mua được xuống nền đất nhưng vẫn bị thu giữ.

Đối với người đã bán ma túy cho Trần Văn C, do C khai không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu nên không đủ căn cứ xác minh xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 98M1- 5530 nhãn hiệu ROONEY, anh L Văn Đ khai mua của một người không quen biết vào khoảng năm 2016, khi mua bán chỉ thỏa thuận miệng không làm giấy tờ. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành tra cứu, chiếc xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Chủ đăng ký xe là anh Đặng Văn L, sinh năm 1975 ở thôn V, xã G, huyện S, tỉnh Bắc Giang. Anh L khai anh là chủ đăng ký chiếc xe trên, sau đó anh đã bán cho một người không quen biết.

Về đồ vật đã tạm giữ của Trần Văn C gồm: 01 chiếc ví da màu nâu, 01 giấy phép lái xe hạng A1, 01 thẻ căn cước công dân, 01 thẻ ngân hàng BIDV đều mang tên Trần Văn C, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên ngày 31/01/2019 Cơ quan điều tra đã trả lại cho Trần Văn C nhận.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định;

01 xe mô tôBKS) 98M1- 5530 nhãn hiệu ROONEY, 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung j5 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen và số tiền 200.000đồng được nhập kho vật chứng để xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 27 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang đã truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án nhẹ nhất.

Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa, bị cáo nhất trí và không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn C từ 16 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 25/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định.

- Trả lại bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung j5 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen và số tiền 200.000đồng nhưng tạm giữ số tiền 200.000đồng để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại anh L Văn Đông 01 xe mô tô BKS 98M1-5530 nhãn hiệu ROONEY.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Cai phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về tội danh: Căn cứ vào Biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập hồi 12 giờ 40 phút ngày 25/12/2018, lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, Kết luận giám định số 1754/KL-KTHS ngày 27/12/218 và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 25 phút ngày 25/12/2018 tại khu vực trước cửa số nhà 36, tổ dân phố số 2, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, bị cáo Cai có hành vi tàng trữ trái phép 0,193 gam ma tuý Heroine để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo tội danh, điểm, khoản, Điều trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật trị an xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ xã hội, làm sói mòn đạo đức, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhận thức và sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác nên Đảng và Nhà nước đang quyết tâm loại trừ tệ nạn này. Bị cáo vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không làm chủ bản thân nên đã cố ý phạm tội. Do đó, cần xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, đã bị xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất. Do đó, cần áp dụng quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[7] Bị cáo đã từng bị xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” nhưng không chịu cải sửa, rèn luyện nay lại phạm tội nên để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, giáo dục bị cáo, phòng ngừa tội phạm cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo.

[8] Tại Biên bản xác minh ngày 15/3/2019, chính quyền địa phương nơi bị cáo Cai cư trú cung cấp điều kiện hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, không có việc làm ổn định, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Đối với người đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo khai không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu nên không đủ căn cứ xác minh xử lý.

[10] Đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự

[11] Đối với chiếc xe mô tô BKS 98M1- 5530 nhãn hiệu ROONEY bị cáo sử dụng đi mua ma túy là của anh L Văn Đông, anh Đông không biết bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy nên cần trả lại anh Đông theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[12] Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung j5 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen và số tiền 200.000đồng là của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại bị cáo theo quy tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng tạm giữ số tiền 200.000đồng để đảm bảo thi hành án.

[13] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[14] Hội đồng xét xử tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn C 01 năm 04 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ,tạm giam 25/12/2018.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định.

- Trả lại bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J5 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen và số tiền 200.000đồng nhưng tạm giữ số tiền 200.000đồng để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại anh L Văn Đông 01 xe mô tô BKS 98M1-5530 nhãn hiệu ROONEY.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/4/2019 giữa Công an thành phố B với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B)

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:53/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về