Bản án 53/2019/HS-ST ngày 05/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 53/2019/HS-ST NGÀY 05/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 11 năm 2019 tại phân trại K4, trại giam Thủ Đức, TAND huyện Hàm Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự đã thụ lý số 55/2019/TLST- HS ngày 17/10/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2019/QĐXXST-HS ngày 21/10/2019 đối với các bị cáo;

1/ NGUYỄN HỒNG T, sinh năm 1989 tại Bình Thuận, tên gọi khác: Bợm Nơi cư trú: Thôn 3, xã H, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận ; Nghề nghiệp: Không;

Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Nguyễn Ánh Q, sinh năm 1944 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1957; cùng HKTT: Thôn 3, xã H, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận;

Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con út Vợ : Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1988, có 01 con sinh năm 2012 cùng trú tại Thôn 3, xã Hồng Sơn, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 142/2013/HSST ngày 13/8/2013 của TAND thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong và đã được xóa án tích.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 39/2019/HSST ngày 21/8/2019 của TAND huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo hiện đang chấp hành bản án này tại phân trại K4, trại giam Thủ Đức.

2/ NGÔ NHỰT Q, sinh năm 1992 tại Bình Thuận, tên gọi khác: Không Nơi cư trú: thôn L, xã T, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận Nghề nghiệp: không;

Trình độ học vấn: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Ngô T, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị Mai D, sinh năm 1962; cùng HKTT: thôn L, xã T, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ 02 Vợ, con: chưa có Tiền sự: Ngày 10/02/2019, bị UBND xã Tân Lập, huyện Hàm Thuận Nam ra Quyết định số 01/QĐ-UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn áp dụng là 03 tháng kể từ ngày 10/02/2019;

Tiền án: không Nhân thân: Tại bản án số 67/2011/HSST ngày 17/6/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong và đã được xóa án tích.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 39/2019/HSST ngày 21/8/2019 của TAND huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo hiện đang chấp hành bản án này tại phân trại K4, trại giam Thủ Đức.

Người bị hại:

- Bà Trần Thị Ngọc B, sinh năm 1974, vắng mặt (Bà Bích có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 4, thị trấn T, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận

- Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1995 (vắng mặt không có lý do) Địa chỉ: Khu phố 7, thị trấn T, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Phạm Xuân H, sinh năm 1978 (vắng mặt không có lý do) Địa chỉ: thôn 3, xã T, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong tháng 3 và tháng 4 năm 2019 Nguyễn Hồng T rủ Ngô Nhựt Q cùng nhau thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Hàm Tân, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Chiều ngày 12/3/2019, T điều khiển xe mô tô ( không rõ biển kiểm soát) chở Q đi vào khu vực rẫy thanh long thuộc khu phố 1, thị trấn Tân Nghĩa, huyện Hàm Tân thì phát hiện xe mô tô biển kiểm soát 86B5-162.97 của bà Trần Thị Ngọc B đang dựng phía sau chòi rẫy thanh long của ông Nguyễn Văn N thì T dừng xe lại bên hông chòi để cảnh giới còn Q đi vào dùng đoản bẻ khóa lấy trộm xe mô tô 86B5-162.97, rồi cả hai điều khiển xe đến cây xăng Hoàng Yến thuộc thôn 1, xã Tân Phúc, huyện Hàm Tân bán cho một người (không rõ lai lịch) được 3.500.000 đồng rồi chia nhau tiêu xài.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 15/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hàm Tân xác định, giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 86B5-162.97 tại thời điểm  T và Quang trộm cắp có giá trị là 9.750.000 đồng Vụ thứ hai: Khoảng 16 giờ ngày 03/4/2019, T điều khiển xe mô tô ( không rõ biển kiểm soát) chở Q theo Quốc lộ 55 hướng Tân Nghĩa - La Gi tìm kiếm xe để trộm cắp. Khi đến đoạn đường vắng thuộc khu phố 6, thị trấn Tân Nghĩa, huyện Hàm Tân thì phát hiện xe mô tô biển kiểm soát 86B3-182.75 của ông Nguyễn Ngọc T dựng bên lề đường đất, chìa khóa còn cắm trên ổ khóa xe. T liền dừng xe đứng ngoài cảnh giới còn Q vào lấy trộm rồi điều khiển xe về xã Tân Phúc, tại đây T đi vào Gara sửa xe không có bảng hiệu gặp Phạm Xuân H hỏi có mua xe không và đòi bán 3.500.000 đồng, H hỏi giấy tờ xe thì  T nói quên mang theo sẽ đưa sau; H đồng ý mua và trả cho T 3.500.000 đồng,  T mang tiền về cùng Q chia nhau tiêu xài. Đến ngày 05/5/2019, H biết xe mô tô trên là do T và Q trộm cắp mà có nên tự nguyện giao nộp lại cho cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm Tân.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐGTS ngày 15/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hàm Tân xác định, giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 86B3-182.75 tại thời điểm  T và Quang trộm cắp có giá trị là 7.250.000 đồng Vật chứng vụ án: xe mô tô biển kiểm soát 86B3-182.75 Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm Tân đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Ngọc T. Đối với xe xe mô tô biển kiểm soát 86B5-162.97 hiện không thu hồi được còn xe mô tô mà  T và Q sử dụng làm phương tiện,  T đã bán cho một người không rõ nhân thân và  T cũng không còn nhớ biển kiểm soát.

Phần dân sự: Anh T đã nhận lại xe mô tô biển kiểm soát 86B3-182.75 và không có yêu cầu gì thêm về dân sự. Bà Bích yêu cầu T và Q bồi thường 9.750.000 đồng, hiện T và Q chưa bồi thường. Phạm Xuân H không yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Đối với Phạm Xuân H trong quá trình mua bán không biết xe mô tô 86B3- 182.75 là tài sản do trộm cắp mà có nên Viện kiểm sát không truy tố.

Tại bản cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 15/10/2019 của VKSND huyện Hàm Tân đã truy tố các bị cáo Nguyễn Hồng T và Ngô Nhựt Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 BLHS;

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Hồng T và Ngô Nhựt Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và thống nhất với các điều khoản mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân đã viện dẫn trong cáo trạng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Hồng T và Ngô Nhựt Q; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 357, Điều 584, Điều 585, Điều 587, Điều 589 Bộ luật dân sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng T từ 18 đến 24 tháng tù và bị cáo Ngô Nhựt Q từ 18 đến 24 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của bản án số 39/2019/HSST ngày 21/8/2019 của TAND huyện Hàm Thuận Nam tỉnh Bình Thuận với hình phạt của bản án mới. Buộc các bị cáo liên đới bồi thường cho bị hại 9.750.000 đồng.

Tại phiên tòa, các bị cáo trình bày lời nói sau cùng, qua đó, các bị cáo đã nhận tội như cáo trạng truy tố và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan công an huyện Hàm Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến, hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nguyễn Hồng T và Ngô Nhựt Q là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Chiều ngày 12/3/2019, tại chòi rẫy thanh long của ông Nguyễn Văn Nc thuộc khu phố 1, thị trấn Tân Nghĩa, huyện Hàm Tân, Nguyễn Hồng T và Ngô Nhựt Q đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô biển kiểm soát 86B5-162.97 trị giá 9.750.000 đồng của bà Trần Thị Ngọc B và khoảng 16 giờ ngày 03/4/2019 tại lề đường Quốc lộ 55 thuộc khu phố 6, thị trấn Tân Nghĩa, huyện Hàm Tân; Nguyễn Hồng T và Ngô Nhựt Q đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô biển kiểm soát 86B3-182.75 trị giá 7.250.000 đồng của anh Nguyễn Ngọc T. Hành vi nêu trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 BLHS.

[3] Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân căn cứ vào hành vi trộm cắp xe mô tô biển kiểm soát 86B5-162.97 trị giá 9.750.000 đồng và xe mô tô biển kiểm soát 86B3-182.75 trị giá 7.250.000 đồng để truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 BLHS. Đây là chứng cứ buộc tội đúng người, đúng tội nên HĐXX chấp nhận.

[4] Hành vi của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xâm hại đến quyền sỡ hữu tài sản công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương do đó HĐXX cần xử lý nghiêm. Khi quyết định hình phạt HĐXX cũng xem xét đến tính chất, vai trò cũng như nhân thân của từng bị cáo để lượng hình cho phù hợp. Xét thấy, đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, trong đó  T là người khởi xướng, rủ rê và giúp sức, Quang là người thực hành tích cực. Như vậy vai trò của bị cáo T trong vụ án là nguy hiểm hơn bị cáo Quang do đó HĐXX cần áp dụng hình phạt tương xứng cho các bị cáo.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ, tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, điều 51 BLHS nên HĐXX cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các bị cáo có hành vi phạm tội nhiều lần. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 BLHS; ngoài ra các bị cáo đều có nhân thân xấu, thường xuyên có hành vi vi phạm pháp luật; riêng bị cáo Quang có tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, do đó HĐXX cần xử lý nghiêm khắc.

[7] Về tổng hợp hình phạt, xét thấy bản án số 39/2019/HSST ngày 21/8/2019 của TAND huyện Hàm Thuận Nam tỉnh Bình Thuận đã có hiệu lực pháp luật, do đó HĐXX cần tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt của bản án mới cho các bị cáo là đúng quy định.

[8] Về vật chứng vụ án: xe mô tô biển kiểm soát 86B3-182.75 đã trả lại cho chủ sở hữu nên HĐXX không xét.

[9] Về phần dân sự: Bà B yêu cầu hai bị cáo T và Q bồi thường trị giá xe mô tô biển kiểm soát 86B5-162.97 không thu hồi được là 9.750.000 đồng. Theo bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 15/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hàm Tân xác định, giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 86B5-162.97 tại thời điểm  T và Q trộm cắp có giá trị là 9.750.000 đồng và tiền bán xe có được bị cáo  T chia đôi cùng Q tiêu xài nên cần buộc hai bị cáo Q và T bồi thường cho bà B 9.750.000 đồng được chia phần cho mỗi bị cáo là 4.875.000 đồng.

[10] Về án phí, các bị cáo phải nộp án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

*Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hồng T và Ngô Nhựt Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”

*Căn cứ: Khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điểm a khoản 1 điều 55, khoản 1 điều 56 Bộ luật hình sự.

Phạt Nguyễn Hồng T 24 tháng tù, tổng hợp phần hình phạt 18 tháng tù của bản án số 39/2019/HSST ngày 21/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận và hình phạt 24 tháng của bản án mới. Buộc bị cáo Nguyễn Hồng T phải chấp hành chung hình phạt cho hai bản án là 42 tháng tù. Thời hạn chấp hành được tính từ ngày 06/5/2019.

*Căn cứ: Khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điểm a khoản 1 điều 55, khoản 1 điều 56 Bộ luật hình sự.

Phạt Ngô Nhựt Q 24 tháng tù, tổng hợp phần hình phạt 18 tháng tù của bản án số 39/2019/HSST ngày 21/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận và hình phạt 24 tháng của bản án mới. Buộc bị cáo Ngô Nhựt Q phải chấp hành chung hình phạt cho hai bản án là 42 tháng tù. Thời hạn chấp hành được tính từ ngày 06/5/2019.

*Căn cứ: Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 357, Điều 584, Điều 585, Điều 587, Điều 589 Bộ luật dân sự Buộc các bị cáo Nguyễn Hồng T và Ngô Nhựt Q bồi thường cho bà Trần Thị Ngọc B 9.750.000 đồng được chia phần cho mỗi bị cáo là 4.875.000 đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

*Căn cứ: khoản 2 điều 136 BLTTHS, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí HSST và 300.000 đồng án phí DSST.

Án xử công khai, báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể tử ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án hợp lệ tại địa phương.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HS-ST ngày 05/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:53/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về