Bản án 53/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN - TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 53/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 20 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2019/TLST-HNGĐ ngày 04/01/2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22/5/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Nguyễn Thị L, sinh năm 1989 (có mặt)

Địa chỉ: Tổ 03, phường H, quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng.

- Bị đơn: Anh Hoàng Minh H, sinh năm 1989 (vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 03, phường H, quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, đơn trình bày ngày 29/01/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đỗ Nguyễn Thị L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân:

Chị và anh Hoàng Minh H tự tìm hiểu được 01 năm rồi kết hôn, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng vào ngày 20/9/2013.

Sau khi cưới vợ chồng chị sống tại nhà riêng gần nhà ba mẹ chồng ở phường H, quận Ngũ Hành Sơn. Vợ chồng sống hạnh phúc đến khoảng cuối năm 2014 thì mâu thuẫn và hiện nay vợ chồng chị L cũng đã sống ly thân. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, quan điểm sống bất đồng, anh H hay nhậu nhẹt, lại có hành vi bạo lực về tinh thần và thể xác đối với chị, đã nhiều lần anh H đánh đập chị.

Hiện nay chị L không còn tình cảm với anh H nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Minh H.

- Về quan hệ con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là: Hoàng Minh H1, sinh ngày 20/4/2012.

Hiện nay cháu H1 đang sống ổn định với chị. Chị L cũng đang có công việc ổn định có thu nhập đảm bảo cho điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H1. Trong khi đó anh H hiện không có công việc ổn định nào, chỉ ở nhà và sống phụ thuộc vào cha mẹ anh H.

Do vậy khi ly hôn, chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu H1, chị L không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về quan hệ tài sản chung: Không có.

- Về quan hệ nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Hoàng Minh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng trình tự quy định của pháp luật. Tuy nhiên, anh H vẫn vắng mặt không có lý do và anh H cũng không có văn bản trình bày ý kiến.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo trừ bị đơn anh Hoàng Minh H đã không thực hiện nghĩa vụ của đương sự là đến Tòa theo triệu tập do vậy căn cứ khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đề nghị xét xử vắng mặt anh H.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 56; khoản 1 Điều 81; 82;83; 84 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Nguyễn Thị L đối với anh Hoàng Minh H:

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Hoàng Minh H.

Về quan hệ con chung: Xử giao con chung là cháu Hoàng Minh H1, sinh ngày 20/4/2012 cho chị Đỗ Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu nên anh Hoàng Minh H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đề cập giải quyết.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Đỗ Nguyễn Thị L phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe các đương sự trình bày ý kiến; sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về vụ án, sau khi thảo luận và nghị án, HĐXX nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Chị Đỗ Nguyễn Thị L khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng thụ lý giải quyết tranh chấp ly hôn, nuôi con chung đối với anh Hoàng Minh H và Tòa án đã thụ lý giải quyết đơn khởi kiện của chị L là đúng thẩm quyền được quy định tại Điều 28, Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa bị đơn anh Hoàng Minh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Vì vậy căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự, HĐXX xét xử vắng mặt bị đơn anh Hoàng Minh H.

Về nội dung:

[3] Chị Đỗ Nguyễn Thị L và anh Hoàng Minh H tự tìm hiểu được 01 năm rồi kết hôn, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng vào ngày 20/9/2013 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp cần được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[4] Sau khi kết hôn, vợ chồng chị L anh H sống tại nhà riêng gần nhà ba mẹ chồng ở phường H, quận Ngũ Hành Sơn. Vợ chồng sống hạnh phúc đến khoảng cuối năm 2014 thì mâu thuẫn và hiện nay chị L anh H cũng đã sống ly thân. Nguyên nhân theo chị L là do tính tình không hợp, quan điểm sống bất đồng, anh H hay nhậu nhẹt, lại có hành vi bạo lực về tinh thần và thể xác đối với chị, anh H còn nhiều lần đánh đập chị.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị L xác định chị không còn tình cảm với anh H nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Minh H.

[5] Trong qúa trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện thủ tục tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa để cho anh Hoàng Minh H có ý kiến nhưng cho đến ngày mở phiên tòa hôm nay anh H vẫn không có mặt và không có văn bản phản hồi ý kiến. Vì vậy HĐXX quyết định xử vắng mặt anh Hoàng Minh H.

[6] Với những tình tiết và chứng cứ trên, HĐXX xét thấy giữa chị L và anh H không có đời sống hôn nhân thực sự, thực tế hiện nay hai người không chung sống cùng nhau, tình cảm vợ chồng không có, giữa vợ chồng không có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân gia đình Việt Nam nghĩ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L đối với anh Hoàng Minh H là hợp lý.

[7] Về con chung: Chị L xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Hoàng Minh H1, sinh ngày 20/4/2012. Hiện nay cháu H1 đang sống cùng với chị L. Vợ chồng ly hôn, chị L đề nghị Tòa án giao cháu H1 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng và chị L không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét nguyện vọng của chị L thì thấy: hiện nay cháu H1 còn rất nhỏ, lại đang sống ổn định cùng với mẹ là chị L. Chị L có công việc ổn định và có thu nhập nên đảm bảo điều kiện về vật chất và tinh thần tốt nhất cho sự phát triển của cháu H1, cũng như cháu H1 rất cần sự chăm sóc chu đáo của mẹ. Ngoài ra, cháu H1 cũng có ý kiến sống cùng mẹ. Quá trình xác minh thể hiện tại Biên bản xác minh ngày 08/3/2019 chính ông bà nội cháu H1 cũng xác nhận đồng ý để chị L trực tiếp nuôi dưỡng cháu H1 sẽ tốt cho cháu H1 hơn. Do vậy, HĐXX nghĩ nên giao cháu H1 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là hợp lý.

[8] Bên không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với vấn đề cấp dưỡng nuôi con chị L không có yêu cầu và anh H cũng không có ý kiến về việc tự nguyện cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét.

[10] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L xác nhận không có nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[11] Về án phí HNGĐ sơ thẩm chị L phải chịu theo quy định pháp luật.

[12] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đề nghị: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Nguyễn Thị L đối với anh Hoàng Minh H. Xử cho chị Đỗ Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Hoàng Minh H; giao con chung là cháu Hoàng Minh H1 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi; anh H không phải cấp dưỡng nuôi con. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đề cập giải quyết. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Đỗ Nguyễn Thị L phải chịu.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 56; khoản 1 Điều 81; 82;83; 84 Luật hôn nhân và gia đình;

- Điều 147, khoản 2 điều 227, Điều 266 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Nguyễn Thị L đối với anh Hoàng Minh H về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”.

I/ Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Hoàng Minh H.

II/ Về quan hệ con chung:

- Giao con chung là cháu Hoàng Minh H1, sinh ngày 20/4/2012 cho chị Đỗ Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Hoàng Minh H không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Bên không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật.

III/ Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đề cập giải quyết.

IV/ Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) chị Đỗ Nguyễn Thị L phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị L đã nộp tại biên lai thu số 0001920 ngày 25/12/2019 tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Ngũ Hành Sơn. Chị L đã nộp đủ án phí.

Chị Đỗ Nguyễn Thị L được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng anh Hoàng Minh H vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:53/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về