TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 53/2018/HSST NGÀY 30/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 10 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 60/2018/TLST – HS ngày 15 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2018/QĐXXST – HS ngày 15 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Lê Văn T, sinh năm 1991 tại: thành phố P - Gia Lai. Nơi cư trú: làng A, xã A, huyện S, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn S và bà Trần Thị H; có vợ là Kpuih K và 01 con. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13/8/2018, tạm giam ngày 16/8/2018, bị cáo đang bị tạm giam. Có mặt.
- Bị hại: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1988 và chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990. Nơi cư trú: làng A, xã A, huyện S, tỉnh Gia Lai. (Chị H có văn bản uỷ quyền tham gia tố tụng cho anh B ngày 21/8/2018). Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 02 giờ sáng ngày 13/08/2018, Lê Văn T đang ngủ ở nhà thì nảy sinh ý định đột nhập vào nhà anh Nguyễn Văn B cũng ở làng A, xã A, huyện S để trộm cắp tài sản. T một mình đi bộ từ nhà của mình đến nhà của anh B (cách nhà anh B khoảng 20m), khi đến nơi T vào trong sân nhà và đi đến cửa gỗ bên hông nhà (Khu vực để máy xay xát gạo), dùng tay mở dây cột cửa đột nhập vào bên trong. Lúc này, thấy gia đình anh Báo đã ngủ say, T bắt đầu lục lọi tìm tài sản, phát hiện bên trong túi áo khoác treo trên tường gần chỗ bán hàng tạp hóa của gia đình anh B có cất tiền, T lục túi áo lấy hết tiền bỏ vào túi quần. T tiếp tục lục túi xách treo trên tường lấy hết số tiền bên trong cùng 01 Sổ tiết kiệm và 01 Sổ Hộ khẩu. Sau đó, T đem toàn bộ đồ vật, tài sản vừa trộm cắp được gồm: 24.000.000đ (Hai mươi bốn triệu đồng), 01 Sổ tiết kiệm và 01 Sổ Hộ khẩu đều mang tên Nguyễn Văn B đến cất giấu ở khu vực giếng nước sau nhà bà Kpuih S ( mẹ vợ của T cách nhà T 10 mét) ở làng A, xã A, huyện S, tỉnh Gia Lai rồi đi về nhà ngủ.
Sau khi sự việc xảy ra, anh Nguyễn Văn B đã đến cơ quan Công an trình báo sự việc. Đến 13 giờ ngày 13/08/2018, Lê Văn T đã đến Công an xã A đầu thú, khai báo toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản và giao nộp toàn bộ đồ vật, tài sản đã trộm cắp được.
Tại Bản cáo trạng số 58/CT – VKS ngày 15/10/2018, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173 các điểm h, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T từ 06 tháng 09 đến tháng tù. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và có lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Sê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 02 giờ sáng ngày 13/8/2018, Lê Văn T lợi dụng lúc gia đình anh Nguyễn Văn B ngủ say, đã đột nhập vào nhà anh B trộm cắp 24.000.000đ (Hai mươi bốn triệu đồng), 01 sổ hộ khẩu số: 430220979 và 01 sổ tiết kiệm số: AD 00006611430 do ngân hàng AGRIBANK Chư Sê cấp ngày 25/7/2018 mang tên Nguyễn Văn B. Hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê truy tố là đúng người, đúng tội.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ sở hữu tài sản của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo vệ đồng thời gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam, muốn có tiền tiêu xài nên đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo; sau khi phạm tội đã đầu thú giao nộp tài sản trộm cắp để trả lại cho bị hại, gia đình bị cáo có sổ hộ nghèo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[4]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Văn B và chị Nguyễn Thị H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử miễn xét.
[5]. Về vật chứng: Số tiền 24.000.000đ (Hai mươi bốn triệu đồng), 01 (một) sổ hộ khẩu số:430220979 mang tên chủ hộ Nguyễn Văn B và 01(một) sổ tiết kiệm số AD 00006611430 do Ngân hàng AGRIBANK Chư Sê cấp ngày 25/7/2018 mang tên Nguyễn Văn B. Cơ quan CSĐT – Công an huyện Chư Sê đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả cho gia đình anh B là phù hợp nên miễn xét.
[6]. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn Thanh phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Bị cáo Lê Văn T 09( chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 13/8/2018.
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án: Xử: Buộc bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo bản án; bị hại có quyền kháng cáo bản án về phần bồi thường và hình phạt đối với bị cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án 53/2018/HSST ngày 30/10/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 53/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chư Sê - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về