Bản án 53/2018/HS-ST ngày 26/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN 

BẢN ÁN 53/2018/HS-ST NGÀY 26/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 06 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 06 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 06 năm 2018 đối với bị cáo:

Hoàng Vũ T, sinh ngày 10 tháng 08 năm 1982; nơi sinh: xóm Ph, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm Ph, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Vũ X ( đã chết) và bà Trịnh Thị S; có vợ: Nguyễn Thị D Thúy và 01 con.

Tiền án: Ngày 09 tháng 03 năm 2017 Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: không.

Nhân thân: ngày 27 tháng 02 năm 2001 Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 29 tháng 08 năm 2005 Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội “ Cưỡng đoạt tài sản”; ngày 21 tháng 10 năm 2008 Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 42 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Tạm giữ từ ngày 08/04/2018 đến ngày 13/04/2018; tạm giam: từ ngày 13/04/ 2018 (có mặt).

- Bị hại:

1.Bà Phan Thị H, sinh năm 1971.

Nơi cư trú: Khối M, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Nghệ An ( vắng mặt)

- Người liên quan:

Bà Phan Thị Nh, sinh năm 1970.

Nơi cư trú: Xóm Ph, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An ( vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 08/04/2018, Hoàng Vũ T, sinh năm 1982 trú tại xóm Ph, xã H, huyện Y đi bộ từ nhà đến cổng chợ thị trấn Y thuộc khối M thị trấn Y với mục đích tìm gặp chị Nguyễn Thị H, bán hoa quả để mượn tiền về mua ma túy sử dụng. Khi đến cổng chợ T không thấy chị H nên đã đi về nhà theo đường quốc lộ 7B, đi đến trước cửa hàng bán đồ điện của chị Phan Thị H, sinh năm 1971 ở khối M thị trấn Y, huyện Y thì T thấy 01 chiếc máy hàn màu đỏ, nhãn hiệu SGYUAN-IGBTCEIS09001 kích thước 40x20x15cm của gia đình chị H để trước sân không có người trông coi nên T đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc máy hàn trên để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Hoàng Vũ T đã vào lấy trộm chiếc máy hàn rồi đem đến nhà bà Phan Thị Nh, sinh năm 1970 ở xóm Ph xã H gửi. Khi gửi T nói với bà Nh “ cho cháu gửi chiếc máy hàn ni, tý cháu lấy”, bà Nh chưa kịp nói gì thì T đặt chiếc máy hàn ở thềm nhà rồi đi bộ về nhà mình. Khi biết hành vi trộm tài sản của mình bị phát hiện thì T đến Cơ quan Công an đầu thú và giao nạp lại tài sản.

Kết luận số 15/KL-HĐĐGTS ngày 11/04/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Thành kết luận “Một máy hàn màu đỏ, nhãn hiệu SGYUAN-IGBTCEIS09001, kích thước 40x20x15cm, máy cũ không còn hoạt động trị giá 400.000 đồng ( Bốn trăm nghìn).

Vật chứng vụ án: Một máy hàn màu đỏ, nhãn hiệu SGYUAN- IGBTCEIS09001, kích thước 40x20x15cm hiện đã được trả lại cho chủ sở hữu là chị Phan Thị H.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Phan Thị H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 55/CT-VKSYT, ngày 29 tháng 05 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành đã truy tố Hoàng Vũ T về tội “ trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt Hoàng Vũ T từ 06 tháng đến 09 tháng tù. sung.

Bị cáo nghiện ma túy, tài sản không có nên không áp dụng hình phạt bổ Án Phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí tòa án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng, cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 13 giờ ngày 08/04/2018, Hoàng Vũ T, sinh năm 1982, trú tại xóm Ph, xã H, huyện Y đi bộ từ chợ thị trấn Y về xã H theo đường quốc lộ 7B . Khi đến trước cửa hàng điện máy của chị Phan Thị H ở khối M thị trấn Y, T phát hiện thấy 01 chiếc máy hàn màu đỏ, nhãn hiệu SGYUAN-IGBTCEIS09001 kích thước 40x20x15cm của chị H để trước sân cửa hàng không có người trông coi nên T đã vào lấy trộm rồi đem đến nhà bà Phan Thị Nh ở xóm Ph, xã H gửi.

Khi biết hành vi trộm tài sản của mình bị phát hiện, Tuấn đến Cơ quan Công an đầu thú và giao nạp chiếc máy hàn có Giá trị 400.000 đồng.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ được, có đủ cơ sở xác định bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, giá trị 400.000 đồng. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản chưa được xoá án tích mà lại trộm cắp tài sản có giá trị 400.000 đồng nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, không chỉ làm thiệt hại về tài sản cho người bị hại mà còn gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân trên địa bàn. Bị cáo liên tục phạm tội, thể hiện bị cáo liều lĩnh, coi thường pháp luật. Tuy nhiên bị cáo khai báo thành khẩn, khi bị phát hiện đã đến Công an đầu thú đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên cần áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt hình phạt tù với mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo nghiện ma túy, thu nhập không có, tài sản không có nên không áp dụng.

[3] Về Dân sự:

Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đúng theo quy trình, thủ tục, thẩm quyền do Bộ luật tố tụng Hình quy định là hợp pháp.

[5] Án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt Hoàng Vũ T 07 ( Bảy ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 04 năm 2018. 

-Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.

Hoàng Vũ T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

-Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2018/HS-ST ngày 26/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:53/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về