Bản án 53/2018/HSST ngày 17/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 53/2018/HSST NGÀY 17/04/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Hôm nay ngày 17 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 42/2018/HSST ngày 07/03/2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/QĐXXST ngày 06 tháng 4 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN THỊ M; sinh ngày 04 tháng 01 năm 1989 tại Thái Nguyên; hộ khẩu thường trú: Số 45 phố Đ, phường C, quận H, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: (không); trình độ văn hóa: 10/12; con ông: Nguyễn Phú S (đã chết) và bà: Phạm Thị D; chồng là Ngô Anh T và có 02 con (lớn 06 nhỏ 05 tuổi).

Danh chỉ bản số 015 lập ngày 22/11/2017 tại Công an quận H, Thành phố Hà Nội.

Tiền án, tiền sự: (không).

Tm giữ: 20/11/2017; tạm giam: 29/11/2017 - (Có mặt).

2. NGUYỄN ĐỨC H; sinh ngày 13 tháng 6 năm 1983 tại Hà Nội; hộ khẩu thường trú: Số 1 ngõ 109 ngách 70 phố S, Tổ 2 phường G, quận L, Thành phố Hà Nội; hiện ở: Số 34 ngõ 179 phố H, phường N, quận B, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: (không); trình độ văn hóa: 12/12; con ông: Nguyễn Đức T và bà: Hoàng Thế N; vợ là Trần Khánh L và có 02 con (lớn 12 nhỏ 05 tuổi).

Danh chỉ bản số 016 lập ngày 22/11/2017 tại Công an quận H, Thành phố Hà Nội.

Tiền sự: Ngày 15/6/2002 Công an thị trấn G xử phạt hành chính về hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Tm giữ: 20/11/2017; tạm giam: 29/11/2017 - (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau:

Khong 21h00 ngày 19/11/2017 tổ công tác Công an phường T, quận H, Thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ phát hiện Nguyễn Thị M đang đứng trước cửa số nhà 45 phố Đ, phường C, quận H, Thành phố Hà Nội có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Khi bị kiểm tra, M đã tự nguyện lấy từ trong áo lót ngực phía bên trái 02 túi nylon bên trong chứa chất bột màu trắng và 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng; lấy từ trong tóc của M (M đội tóc giả) 01 túi nylon chứa tinh thể màu trắng và 01 túi nylon bên trong chứa chất bột màu đỏ giao nộp cho tổ công tác. M khai nhận chất bột màu trắng là Heroin M mang đi để bán, tinh thể màu trắng là ma túy tổng hợp loại “đá” và chất bột màu đỏ là ma túy tổng hợp loại “Ngựa” M mang theo để sử dụng. Ngay sau đó, tổ công tác đã tiến hành niêm phong tang vật và đưa M cùng tang vật về trụ sở Công an phường C làm rõ. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu vàng đen (kèm sim) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu ghi đen (kèm sim).

Theo kết luận giám định:

- Chất bột màu trắng bên trong 02 túi nylon và 01 gói giấy đựng chất bột màu trắng đều là ma túy loại Heroine, tổng trọng lượng: 0,515 gam.

- Chất bột màu đỏ bên trong 01 gói nylon là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng: 0,086 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nylon là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng: 0,101 gam.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Thị M khai: Khoảng 13h00’ ngày 19/11/2017 M mua của một người bạn xã hội tên H1 (không rõ địa chỉ) 01 túi ma túy “đá” màu trắng và 01 túi ma túy loại “ngựa” màu đỏ với giá 250.000 đồng mục đích để sử dụng và nếu có ai hỏi mua thì bán. Sau khi mua được ma túy M mang về nhà ở 45 phố Đ, Hà Nội. Đến 14h00’ cùng ngày có T (không biết tên tuổi, địa chỉ) và Nguyễn Đức H đến nhà M chơi. Tại đây, H mua của M 100.000 đồng ma túy “đá”, M lấy một ít ma túy “đá” trong túi ma túy đã mua của H1 bán cho H, sau đó cả 3 người cùng sử dụng. Đến 15h00’ cùng ngày H trả cho M 100.000 đồng. Đến 19h00’ cùng ngày, lúc này cả T và H đều đang ở nhà M thì có một người thanh niên tên A (không biết địa chỉ nơi ở) đến nhà và mua của M 140.000 đồng ma túy “đá”. M lấy một ít ma túy “đá” trong túi ma túy đã mua của H1 cho vào túi nylon bán cho A. Đến khoảng 20h30’ cùng ngày, H1 gọi điện cho M hỏi mua Heroin, M đồng ý bán. Vì trước đó M có nhìn thấy H có 01 cục Heroin nên M đã hỏi H có bán cục Heroin đó không và H đồng ý bán. H cầm cục Heroin cắt một ít gói vào giấy cho M nói là phần trả công M bán ma túy. Phần còn lại M chia vào 02 túi nylon và 01 gói giấy nhỏ H đưa giấu vào áo lót ngực bên trái rồi xuống vỉa hè 45 phố Đ chờ H1 đến để bán ma túy, M định bán cho H1 số ma túy trên với giá 1.900.000 đồng. Trong lúc chờ H1 đến nhận ma túy thì M bị Công an kiểm tra bắt giữ cùng tang vật. M khai số ma túy “đá” M mang theo người để sử dụng. Hai chiếc điện thoại di động Cơ quan điều tra thu giữ đều là tài sản của M và sử dụng liên lạc mua bán ma túy. Số tiền M bán ma túy cho H và A, M đã chi tiêu cá nhân hết.

Tổ công tác đã dẫn giải M để xác định đối tượng Nguyễn Đức H đang đứng trước cửa số nhà 45 phố Đ và đã đưa H về trụ sở làm việc. Cơ quan điều tra đã thu giữ của H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng đã qua sử dụng (kèm sim). Ngày 20/11/2017 Nguyễn Đức H bị bắt theo lệnh bắt khẩn cấp của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàn Kiếm.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Đức H khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị M, H khai: Khoảng 14h00’ ngày 19/11/2017 H đến nhà M chơi và mua của M 100.000 đồng ma túy “đá” để sử dụng ngay tại nhà M cùng với M và T. Đến tối cùng ngày, trong lúc H nhờ M đi mua thẻ chơi điện tử thì T có bỏ ra một cục Heroin và cắt ra một ít để cùng sử dụng, phần còn lại để trên sàn nhà. Đến khoảng 20h00’ cùng ngày có một thanh niên tên A đến gặp và mua của M 140.000 đồng ma túy “đá”. Đến khoảng 20h30’ cùng ngày, có một phụ nữ gọi điện cho M hỏi mua heroin, M hỏi H có bán số Heroin còn lại không, H đồng ý bán, M thỏa thuận giá bán là 1.900.000 đồng. H chia cục Heroin thành hai phần, một phần nhỏ để trong gói giấy màu trắng đưa cho M để trả công M bán ma túy, phần nhiều hơn H đưa cho M để bán. Sau khi M đi bán ma túy lâu không thấy về nên H nhắn tin qua điện thoại giục M và đi ra trước cửa nhà 45 phố Đ thì bị Công an đưa về trụ sở. Điện thoại di động iphone 6 Cơ quan điều tra thu giữ, H khai là tài sản của H, có sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.

Đi tượng H1 gọi điện hỏi mua và bán ma túy cho M, M khai chỉ biết số điện thoại là 0942428998 mà không rõ căn cước. Cơ quan điều tra không xác định được chủ thuê bao số điện thoại trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm không có điều kiện làm rõ để xử lý.

Đi tượng A và T; H và M đều khai không biết rõ căn cước và không nhớ số điện thoại nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Đi với hành vi tàng trữ trái phép 0,187 gam Methamphetamine của Nguyễn Thị M, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 chưa đủ trọng lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với M về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bản cáo trạng số 41/CT-VKSHK ngày 02/3/2018 Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Nguyễn Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” - theo điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 và truy tố Nguyễn Đức H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” - theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Ngày 19/11/2017 tại nhà M vào khoảng 14h00’ M bán cho Nguyễn Đức H 100.000 đồng ma túy “đá”. Đến 19h00’ cùng ngày, M bán cho một đối tượng tên A 140.000 đồng ma túy “đá”. Số tiền M bán ma túy cho H và A, M đã chi tiêu cá nhân hết. Đến khoảng 20h30’ cùng ngày, đối tượng tên H1 gọi điện cho M hỏi mua 1.900.000 đồng Heroin, M đồng ý bán. Vì trước đó M nhìn thấy H có 01 cục Heroin nên M đã hỏi H có bán cục Heroin đó không và H đồng ý bán. H cầm cục Heroin cắt một ít gói vào giấy đưa cho M và nói đó là phần trả công M bán ma túy cho H, phần còn lại M chia vào 02 túi nylon và 01 gói giấy nhỏ mà H đưa giấu vào trong người và đi đến vỉa hè 45 phố Đ chờ H1 để bán ma túy thì bị Công an kiểm tra bắt giữ cùng tang vật.

Do đó, Vin kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” - theo điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 và Nguyễn Đức H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” - theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999. Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M với mức án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù. Áp dụng khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H với mức án từ 30 đến 36 tháng tù. Vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu, tiêu hủy ma túy; tịch thu, sung quỹ Nhà nước các điện thoại di động thu giữ của M và H.

Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét và trong quá trình điều tra các bị cáo khai báo thành khẩn, các bị cáo phạm tội lần đầu; đề nghị cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi: Bị cáo Nguyễn Thị M nghiện ma túy. Do hám lời, M mua ma túy tổng hợp của đối tượng tên H1 để bán. Ngày 19/11/2017 đã ba lần M bán ma túy.

Lần thứ nhất vào khoảng 14h00’ ngày 19/11/2017 M bán cho Nguyễn Đức H 100.000 đồng ma túy “đá”. Lần thứ hai vào khoảng 20h00’ M bán cho một đối tượng tên là A 140.000 đồng ma túy “đá”, số tiền M bán ma túy cho H và A, M đã chi tiêu cá nhân hết. Lần thứ ba, vào khoảng 20h30 cùng ngày có một đối tượng tên H1 gọi điện cho M hỏi mua 1.900.000 đồng Heroin, M thấy H để cục Heroin trên sàn nhà nên hỏi H có bán cục Heroin còn lại không, H đồng ý bán. H chia cục Heroin làm 02 phần (một phần nhỏ Heroin để trong gói giấy màu trắng có giá khoảng 100.000đồng, H đưa cho M để trả công M bán ma túy cho H. Phần Heroin còn lại nhiều hơn H đưa cho M để bán). M cầm toàn bộ số ma túy H đưa và đi ra trước cửa số nhà 45 phố Đ đứng chờ bán ma túy cho H1, nhưng chưa kịp giao ma túy và thu tiền thì M đã bị Công an bắt giữ cùng vật chứng là 0,515g Heroin.

Bị cáo Nguyễn Đức H nghiện ma túy. Ngày 19/11/2017 Hoàng đến nhà M mua ma túy dạng “đá” của M với giá 100.000 đồng và sử dụng ngay tại nhà M. Khi H vẫn đang ở nhà M thì chứng kiến việc M bán ma túy cho đối tượng tên là A. Khi có đối tượng gọi điện hỏi mua Heroin của M thì H đã đưa Heroin của mình để M bán và H trả công cho M bằng Heroin.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo biết rõ hành vi bán ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do hám lợi nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị M đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” tội và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Hành vi của bị cáo Nguyễn Đức H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” tội và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Về tình tiết tăng nặng: Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo khai báo thành khẩn đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hi đồng xét xử căn cứ tính chất hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo M tốt, chưa có tiền án, tiền sự; nhân thân bị cáo H có một tiền sự ngoài thời hiệu; căn cứ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; căn cứ vai trò của các bị cáo trong vụ án; do vậy, cần thiết áp dụng hình phạt tù cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Ngoài hình phạt chính, không áp dụng hình phạt bổ sung vì các bị cáo không có nghề nghiệp.

Biện pháp tư pháp:

- Ma tuý: Tịch thu, tiêu huỷ 0,515g Heroin và 0,187g Methamphetamine;

- Điện thoại Nokia 105 và điện thoại Philip thu giữ của bị cáo M (đã cũ, giá trị sử dụng không còn), bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán ma túy nên cho tịch thu, tiêu hủy.

- Điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng thu giữ của bị cáo Hoàng, bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán ma túy nên cho tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: NGUYỄN THỊ M và NGUYỄN ĐỨC H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

3. Hình phạt:

Xử phạt: NGUYỄN THỊ M 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/11/2017.

4. Áp dụng: khon 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

5. Hình phạt:

Xử phạt: NGUYỄN ĐỨC H 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/11/2017.

6. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

a. Tịch thu, tiêu huỷ: Một phong bì đã niêm phong có chữ ký của Nguyễn Thị M và giám định Vũ Việt C bên trong có: Hai túi nylon và một gói giấy đựng Heroin, tổng trọng lượng: 0,515gam (Trích mẫu giám định 0,030 gam, còn lại 0,485 gam Heroin); một gói giấy đựng ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng: 0,086g (Trích mẫu giám định 0,045 gam, còn lại 0,041 gam Methamphetamine); một túi nylon đựng ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng: 0,101 gam (Trích mẫu giám định 0,056 gam, còn lại 0,045 gam Methamphetamine); một điện thoại di động Nokia màu ghi đen; một điện thoại Philips màu vàng đen màn hình bị rạn nứt và ba sim điện thoại.

b. Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: Một điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng.

(Theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 08/03/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm).

7. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

8. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2018/HSST ngày 17/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:53/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về