Bản án 53/2018/HNGĐ-ST ngày 30/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 53/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố VL xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 81/2018/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 276/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Mỹ L, sinh năm 1984; trú tại: Số 457/30, ấp LT, xã LP, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long (Vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Hồ Bảo L1, sinh năm 1981; trú tại: Số 46/15, đường LTT, Khóm 1, Phường A, thành phố VL, tỉnh Vĩnh Long (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 20/11/2017 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Đặng Thị Mỹ L trình bày như sau:

Về hôn nhân: Do là bạn học chung được 07 năm, sau đó anh chị tự tìm hiểu được 03 tháng thì đi đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng từ khoảng tháng 01/2013 nhưng đến ngày 12/9/2013 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường A, thành phố VL, tỉnh Vĩnh Long. Trong quá trình chung sống, anh chị sống hạnh phúc được 10 tháng thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên xảy ra cự cải, mâu thuẫn về kinh tế, anh L1 không chăm lo cho gia đình mặc dù chị L có khuyên nhiều lần nhưng anh L1 không sửa chữa nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc.

Hiện nay anh chị đã sống ly thân được 04 năm, chị L xác định không còn tình cảm nên yêu cầu ly hôn với anh Hồ Bảo L1.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, anh chị có một con chung tên Hồ Sơn H, sinh ngày 06/02/2014, hiện do chị L nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị L yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu anh L1 cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và Đơn xin vắng mặt ngày 08/5/2018, chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Chị L yêu cầu ly hôn với anh L1; về con chung: Chị L yêu cầu nuôi con chung tên Hồ Sơn H, sinh ngày 06/02/2014, không yêu cầu anh L1 cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Hồ Bảo L1 được Tòa án Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo để tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không có văn bản trả lời ý kiến cho Tòa án.

Tại phiên tòa, anh Hồ Bảo L1 được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố VL phát biểu ý kiến:

- Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử đều tuân theo đúng quy định pháp luật tố tụng, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng thực hiện đúng pháp luật. Thời hạn đưa vụ án ra xét xử đúng quy định, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật.

- Về quan điểm giải quyết vụ án đề nghị:

+ Áp dụng các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự;

+ Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đặng Thị Mỹ L. Cho chị L được ly hôn với anh L1.

- Về con chung: Giao cháu Hồ Sơn H, sinh ngày 06/02/2014 cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng, anh L1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về án phí: Buộc chị Đặng Thị Mỹ L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, bị đơn có hộ khẩu thường trú tại thành phố VL được thụ lý phù hợp về thẩm quyền qui định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Về thủ tục tố tụng: Chị Đặng Thị Mỹ L có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 08/5/2018, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị L là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Hồ Bảo L1 được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Long là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về hôn nhân:

- Chị Đặng Thị Mỹ L và anh Hồ Bảo L1 tự tìm hiểu và đi đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn vào ngày 12/9/2013 tại Ủy ban nhân dân Phường A, thành phố VL, tỉnh Vĩnh Long theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

- Trong quá trình chung sống, anh chị sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị L trình bày nguyên nhân mâu thuẫn do mâu thuẫn về kinh tế, anh L1 không chăm lo cho gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên xảy ra cự cải vì vậy cuộc sống hôn nhân của anh chị không còn hạnh phúc. Hiện nay, anh chị đã sống ly thân với nhau vì vậy chị L yêu cầu ly hôn với anh L1 vì xác định không còn tình cảm với anh L1.

Xét thấy, chị L và anh L1 có một khoảng thời gian sống ly thân. Trong khoảng thời gian này, anh chị không tháo gỡ được những mâu thuẫn, không còn quan tâm chăm sóc nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo cho anh L1 tham gia hòa giải và trình bày ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị L nhưng anh L1 không tham dự và cũng không có ý kiến phản bác đối với yêu cầu của chị L; Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần để các bên tháo gỡ những mâu thuẫn nhưng anh L1 không tham gia để tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng do đó mâu thuẫn giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L là phù hợp theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Theo chị Đặng Thị Mỹ L xác định, chị L và anh L1 có một con chung tên Hồ Sơn H, sinh ngày 06/02/2014, hiện nay do chị L nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị L yêu cầu tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh L1 cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét điều kiện nuôi con: Từ khi chị Đặng Thị Mỹ L và anh Hồ Bảo L1 sống ly thân thì cháu Sơn H do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến nay. Để đảm bảo về chỗ ở ổn định, học tập, vui chơi, để đảm bảo sự phát triển về tâm sinh lý của cháu vì vậy chấp nhận yêu cầu của chị Linh là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét về nghĩa vụ cấp dưỡng: Chị L không yêu cầu anh L1 cấp dưỡng nuôi con chung, anh L1 cũng không có ý kiến gì về việc cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận sự tự nguyện này của chị L.

[3.3] Về tài sản chung: Chị Đặng Thị Mỹ L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

 [3.4] Về nợ chung: Chị Đặng Thị Mỹ L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Xét quan điểm trình bày của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố VL là có cơ sở chấp nhận.

[5] Về án phí:

Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc chị Đặng Thị Mỹ L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chị L được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí nộp ngày 02/3/2018 theo biên lai thu số N0 0003689 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố VL thành tiền án phí. Chị L đã nộp đủ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đặng Thị Mỹ L. Cho chị Đặng Thị Mỹ L được ly hôn với anh Hồ Bảo L1.

2. Về con chung: Giao cháu Hồ Sơn H, sinh ngày 06/02/2014 cho chị Đặng Thị Mỹ L tiếp tục nuôi dưỡng và giáo dục, anh L1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Đặng Thị Mỹ L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Đặng Thị Mỹ L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

5. Về án phí:

Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc chị Đặng Thị Mỹ L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chị L được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí nộp ngày 02/3/2018 theo biên lai thu số N0 0003689 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố VL thành tiền án phí. Chị L đã nộp đủ.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2018/HNGĐ-ST ngày 30/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:53/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về