TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 53/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 28 tháng 12 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 195/2018/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2018/QĐXX-ST ngày 12 tháng 12 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Bá B, sinh năm 1991. Có mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh.
2. Bị đơn: Chị Hoàng Thanh H, sinh năm 1998. Có mặt.
HKTT: Thôn Đ, xã L, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh. Nơi ở: Thôn K, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay thể hiện nội dung vụ án như sau:
Anh Nguyễn Bá B trình bày: Anh Nguyễn Bá B và chị Hoàng Thanh H chung sống với nhau từ tháng 02/2015, trước khi chung sống có tìm hiểu thỏa thuận nhưng không đăng ký kết hôn vì khi đó chị H chưa đủ tuổi đăng ký. Đến tháng 8/2016 chị H đủ tuổi nên anh B và chị H đã đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Y. Trong quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do không có sự hòa hợp về tính tình, chị H còn trẻ nên hay ham chơi bạn bè, có lần chị H đi chơi qua đêm mới về, nhiều lần anh B và gia đình khuyên bảo nhưng chị H không nghe và chị H đã làm đơn xin ly hôn anh B sau đó lại rút đơn về. Khi xảy ra mâu thuẫn vợ chồng không đánh cãi chửi nhau. Sau khi chị H làm đơn xin ly hôn, anh B và gia đình đã yêu cầu chị H đi khỏi nhà từ cuối tháng 10/2017 cho đến nay. Từ khi chị H bỏ đi anh B không gọi lần nào và chị H thi thoảng có về thăm con xong lại đi. Vợ chồng chấm dứt quan hệ từ khi chị H bỏ đi. Nay anh B xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh B xin ly hôn chị H theo quy định của pháp luật.
Con chung: vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 02/11/2015 nay đang ở với anh B, đời sống được đảm bảo. Sau khi ly hôn anh B nhận nuôi con chung của vợ chồng và không yêu cầu chị H cấp dưỡng. Hiện nay anh B đi làm Công ty cây xanh ở quận Hà Đông, TP.Hà Nội có mức thu nhập khoảng 13-14 triệu đồng/ tháng.
Tài sản, công nợ, ruộng canh tác không có vướng mắc gì. Sau khi ly hôn không yêu cầu toà án giải quyết.
Chị Hoàng Thanh H trình bày: Chị H và anh B chung sống với nhau từ tháng 02/2015, khi cưới có tìm hiểu thỏa thuận nhưng không đăng ký kết hôn vì khi đó chị H chưa đủ tuổi đăng ký. Cưới xong vợ chồng chung sống với nhau ngay, có thời gian hòa thuận và đã có 01 con chung. Đến ngày 09/8/2016 chị H đủ tuổi và đã đăng ký kết hôn với anh B theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến tháng 10/2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không có sự hòa hợp về tính tình nên hay xảy ra cãi nhau. Khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn gia đình có dàn xếp nhưng không có kết quả. Gia đình anh B đã đuổi chị H ra khỏi nhà từ tháng 10/2017 cho đến nay chị H không quay lại chung sống cùng anh B nữa. Vợ chồng chấm dứt quan hệ từ tháng 10/2017 cho đến nay. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh B xin ly hôn chị H nhất trí.
Con chung: vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 02/11/2015 nay đang ở với anh B, đời sống được đảm bảo. Sau khi ly hôn chị H nhận nuôi con chung của vợ chồng và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Chị H có thời gian làm bảo vệ tại Wincom Bắc Ninh và hiện nay đã bỏ việc về nhà bán hàng cho bố mẹ đẻ ở quê, có mức thu nhập khoảng 6.000.000đồng/ 1 tháng.
Tài sản, công nợ, ruộng canh tác không có vướng mắc gì. Sau khi ly hôn không yêu cầu toà án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V tham gia phiên tòa nhận xét quá trình tiến hành tố tụng, xét xử vụ án, Tòa án và Hội đồng xét xử thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án và đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ vào các Điều 51, 55, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 - Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí; Xử:
-Quan hệ vợ chồng: Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Bá B và chị Hoàng Thanh H.
-Con chung: Giao cho anh Nguyễn Bá B được nuôi con chung của vợ chồng là Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 02/11/2015. Chị Hoàng Thanh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Nguyễn Bá B.
-Anh B phải chịu án ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Hoàng Thanh H hiện đang cư trú tại thôn K, xã T, huyện V. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bắc Giang là Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án.
[2] Về nội dung vụ án: Anh Nguyễn Bá B và chị Hoàng Thanh H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 09/8/2016 tại UBND xã L, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh được xác nhận là hôn nhân hợp pháp.
Xét yêu cầu ly hôn của anh B thấy: anh B và chị H kết hôn với nhau đã có thời gian chung sống hạnh phúc và đã có 01 con chung, trong quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng anh B và chị H đều trình bày hai bên không có sự hòa hợp về tính tình nên trong cuộc sống hay xảy ra cãi nhau. Anh B và chị H đã chấm dứt quan hệ vợ chồng từ tháng 10/2017 cho đến nay không ai quan tâm đến ai. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải để cho vợ chồng về đoàn tụ, nhưng anh B và chị H cả hai bên không có nguyện vọng đoàn tụ chung sống, anh B xin ly hôn chị H nhất trí. Xét việc thuận tình ly hôn giữa anh B và chị H là hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định của pháp luật. Vì vậy, cần công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Bá B và chị Hoàng Thanh H là phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Xét yêu cầu nuôi con chung của hai bên thấy rằng: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 02/11/2015 nay đang ở với anh B đời sống được đảm bảo, sau khi ly hôn anh B và chị H đều nhận nuôi con chung của vợ chồng và không yêu cầu cấp dưỡng. Xét yêu cầu được nuôi con chung của anh B và chị H sau khi ly hôn là có căn cứ. Hiện nay anh B có công việc và thu nhập ổn định 9.000.000đồng/ 1 tháng đã được Công ty xác nhận; đối với chị H công việc không ổn định khi thì chị H khai làm nhân viên Khách sạn ở huyện Y, khi thì khai làm bảo vệ tại Wincom Bắc Ninh, khi thì chị H khai làm công nhân may tại khu Công nghiệp huyện V và hiện tại đang bán hàng cho bố, mẹ đẻ tại nhà có mức thu nhập bình quân khoảng 6.000.000đồng/ 1 tháng. Như vậy xét về điều kiện kinh tế cũng như thu nhập thì anh Nguyễn Bá B ổn định hơn chị Hoàng Thanh H. Chị H và anh B đều xác định hiện tại con chung ở với anh B các điều kiện và đời sống của con được đảm bảo. Để đảm sự ổn định cuộc sống không bị xáo trộn cũng như sự phát triển bình thường và tạo điều kiện cho con được phát triển tốt về mọi mặt, cần giao cho anh Nguyễn Bá B nuôi con chung của vợ chồng là phù hợp pháp luật. Do anh B không yêu cầu nên chị H không phải cấp dưỡng nuôi con cho anh B. Chị Hoàng Thanh H có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở chị H thực hiện quyền này.
[4] Về tài sản chung: Anh B và chị H không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[5] Về án phí: Anh B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và 273 - Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 55, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình.
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí; Xử:
-Quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Bá B và Mchị Hoàng Thanh H.
-Con chung: Giao cho anh Nguyễn Bá B được nuôi con chung của vợ chồng là Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 02/11/2015. Chị Hoàng Thanh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Nguyễn Bá B.
Chị Hoàng Thanh H có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở chị H thực hiện quyền này.
-Án phí: Anh Nguyễn Bá B phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Được trừ vào số tiền 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) anh B đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 05095 ngày 16/8/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V. (Xác nhận anh B đã nộp đủ án phí).
Báo cho các đương sự có mặt biết, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 53/2018/HNGĐ-ST ngày 28/12/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 53/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/12/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về