Bản án 53/2017/HNGĐ-ST ngày 20/06/2017 về tranh chấp ly hôn

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 53/2017/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 741/2016/TLST-HNGĐ ngày29 tháng 12 năm 2016 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2017/QĐXX-ST ngày 12/5/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 55/QĐHPT-ST ngày 31/5/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Đoàn T. N. L, sinh năm: 1986

Nơi cư trú: thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần V. T, sinh năm: 1983

Nơi cư trú: thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Đoàn T. N. L trình bày: Bà và ông Trần V. T đăng ký kết hôn năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã N. Vợ chồng bà có con chung là Trần X. T. Ng, sinh ngày 15/03/2014. Trong quá trình chung sống, ông T không có nghĩa vụ, trách nhiệm với gia đình, không chịu chăm lo làm ăn mà còn đánh đập vợ con. Từ đó làm cho tình cảm tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, mâu thuẩn căng thẳng. Vợ chồng bà đã ly thân hơn một năm nay và không còn tình cảm nữa nên bà yêu cầu ly hôn với ông T. Về con chung, bà yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông Thái cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Trần V. T được triệu tập nhưng vắng mặt nên không lấy được lời trình bày:

Tại phiên tòa, Đại diên viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân, nguyên đơn bà Đoàn T. N. L yêu cầu được ly hôn với ông Trần V. T là có cơ sở nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung, nguyên đơn bà L yêu cầu được nuôi con chung không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung xét thấy nên cần giao con chung cho bà L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp theo quy định tại các Điều 58; 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về tài sản chung, bà L không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã nhiều lần triệu tập lấy lời khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đồng thời tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Trần V. T cố tình vắng mặt để giải quyết vụ án. Vì vậy, áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

 [2] Về quan hệ tranh chấp: Bà Đoàn T. N. L yêu cầu ly hôn với ông Trần V. T nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đoàn T. N. L và ông Trần V. T tự nguyện đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 37 ngày 03/6/2014 nên Tòa công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông T là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, theo lời trình bày của nguyên đơn thì ông Thái không có nghĩa vụ, trách nhiệm với gia đình, không chịu chăm lo làm ăn mà còn đánh đập vợ con. Từ đó làm cho tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, mâu thuẩn căng thẳng. Vợ chồng bà đã ly thân hơn một năm nay và không còn tình cảm với nhau nữa. Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà Đoàn T. N. L và ông Trần V. T thể hiện trong “ quá trình chung sống nảy sinh mâu thuẩn do ông T hay quậy phá, không có trách nhiệm với gia đình và đã không sống chung với nhau hai năm”. Ông T đã được tòa triệu tập đến tòa để thực hiện quyền, nghĩa vụ nhưng vẫn không có mặt là tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Do vậy, xét thấy tình cảm của bà Đoàn T. N. L không còn đối với ông Trần V. T, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được là có cơ sở theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà L.

 [3.2] Về con chung: Bà L yêu cầu được nuôi con chung là Trần X. T. Ng, sinh ngày 15/03/2014 không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Việc ông T không có mặt tại Tòa án để thực hiện quyền yêu cầu về việc nuôi con chung là tự từ bỏ quyền, và lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy, căn cứ vào các Điều 58; 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao con chung cho bà L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp và bảo đảm được quyền lợi cho cháu là hợp lý.

 [3.3] Về tài sản chung: Bà L không yêu cầu tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc ly hôn và nuôi con chung. Quan điểm nói trên của đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Tòa án nên chấp nhận.

 [5] Về án phí:

Bà Đoàn T. N. L phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 264; Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự.Căn cứ khoản 1 Điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Đoàn T. N. L: Bà Đoàn T. N. L được ly hôn với ông Trần V. T.

2. Về con chung: Giao cháu Trần X. T. Ng, sinh ngày 15/03/2014 cho bà Đoàn T. N. L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà L không yêu cầu ông Thái cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Trần V. T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí: Bà Đoàn T. N. L phải nộp án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 200.000đ nhưng được trừ vào 200.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0012973 ngày 26/12/2016 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2017/HNGĐ-ST ngày 20/06/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:53/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về