Bản án 53/2017/HNGĐ-ST ngày 15/09/2017 về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 53/2017/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH LY HÔN

Trong ngày 15 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 363/2017/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2017, về tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 64/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên toà số: 35/2017/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị T, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Ấp H, xã N, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Phạm Văn U, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Tổ K, Khóm H, Phường N, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.

 (Các đương sự có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 17-7-2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Văn U chung sống năm 2001, không có đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, nguyên nhân do không cùng quan điểm sống. Chị T và anh U không còn chung sống với nhau từ năm 2002 cho đến nay. Từ khi sống xa nhau, vợ chồng không hàn gắn tình cảm.

Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nay chị Nguyễn Thị T yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Văn U.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Tại phiên hòa giải ngày 23-8-2017 và trong quá trình xét xử, bị đơn anh Phạm Văn U trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh U thống nhất với lời trình bày của chị T về thời gian chung sống cũng như mâu thuẫn vợ chồng. Anh U nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh U đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị T.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Căn cứ theo đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị T và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Bị đơn anh Phạm Văn U có địa chỉ tại Phường 6, thành phố Cao Lãnh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [3] Về quan hệ hôn nhân: Việc chị T và anh U chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn là có thật, đã được các đương sự thừa nhận.

Tại phiên tòa, chị T và anh U trình bày vợ chồng chung sống với nhau từ năm 2001. Trong thời gian vợ chồng chung sống thì không được hạnh phúc, nguyên nhân do phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên từ năm 2002 cho đến nay, chị T và anh U đã không còn sống chung. Nay chị T yêu cầu được ly hôn với anh U, anh U cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị T.

Xét yêu cầu của chị T yêu cầu được ly hôn với anh U. Hội đồng xét xử xét thấy, chị T và anh U chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 2001 nhưng chị T và anh U không tuân thủ về đăng ký kết hôn mà Luật hôn nhân và gia đình đã quy định, nên hôn nhân của chị T và anh U không phải là hôn nhân hợp pháp, không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định:

 “1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…” .

Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình thì không có giá trị pháp lý.

Vì vậy, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 14, Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị T với anh Phạm Văn U.

 [4] Về con chung: Không có.

 [5] Về tài sản chung: Chị T và anh U đều xác định là không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [6] Về nợ chung: Không có.

 [7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng phí mà chị đã nộp. Anh U không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 14, khoản 1 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị T với anh Phạm Văn U.

- Về con chung: Không có.

- Về tài sản chung: Chị T và anh U đều xác định là không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí về hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng chị T đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 00016 ngày 02 tháng 8 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh.

Chị T đã nộp xong tiền án phí. Anh U không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2017/HNGĐ-ST ngày 15/09/2017 về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn

Số hiệu:53/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về