Bản án 531/2019/HS-PT ngày 18/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 531/2019/HS- PT NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/2019/TLPT-HS ngày 20 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Trần Xuân D và bị cáo Trương Minh Th do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 441/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

1/ Trần Xuân D; giới tính: Nam; sinh năm: 1972 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: đường Ng, Phường 22, quận B, Thành phổ Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Không; Cha: Trần Ng, Mẹ: Ngô Thị L; Vợ Nguyễn Thị Hoài Nh, sinh năm 1978 (đã ly hôn); Có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 20/01/1987 bị Công an quận B bắt về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, sau đó được cảnh cáo tha.

- Ngày 17/10/1988 bị Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt về tội “Cướp giật tài sản công dân”. Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù giam. Ngày 18/9/1989, Toà phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, xử phạt 02 năm tù giam, đến ngày 17/10/1990 được tha về.

- Ngày 21/12/1990 bị Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt về tội “Cướp giật tài sản công dân”. Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù giam, đến năm 1993 được tha về.

- Ngày 30/9/1996 bị Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt về tội “Cướp tài sản công dân”; “Cướp giật tài sản công an” và “Tàng trữ vũ khí quân dụng”. Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt cả 03 tội danh là 14 năm tù. Ngày 15/9/1998, Toà phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, y án sơ thẩm, thi hành án đến ngày 27/4/2007 được tha về.

- Ngày 24/10/2013, Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có giấy chứng nhận xoá án tích số 136/2013/GCN-CA đối với Trần Xuân D.

Bị bắt tạm giam từ ngày 21/3/2017. (Có mặt)

2/ Trương Minh Th; giới tính: Nam; sinh năm: 1976 tại Bến Tre; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường Ng1, Phường 1, thành phố B1, tỉnh Bến Tre; chỗ ở: đường V, Phường 22, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không; con ông Trương Minh Tr và bà Nguyễn Thị H; hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 21/3/2017. (Có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Xuân D: Luật sư Đỗ Hải B – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người bào chữa cho bị cáo Trương Minh Th: Luật sư Nguyễn Văn T - Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng và nội dung án sơ thẩm nêu hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:

Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 21/3/2017, tại khu vực đường Ng3, Phường 17, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, tổ công tác Đội 3 Phòng PC47 Công an Thành phố Hồ Chí Minh, phòng 4 Cục C47B Bộ Công an và Công an phường 17, quận B phát hiện bắt quả tang Trần Xuân D đang có hành vi tàng trữ ma tuý (bút lục 94 - 95). Qua kiểm tra, thu giữ trong cốp xe gắn máy biển số 59A3- 105.50 do D đang sử dụng có 01 túi vải bên trong có 05 bịch nylon chứa 4980 viên nén màu xanh nhạt và đậm có hình vương miện, qua giám định là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 1586,52g loại MDMA; 01 bịch nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng 997,67g loại Ketamine (Kết luận giám định số 654/KLGĐ-H ngày 05/4/2016 của Phòng Kỳ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh). Sau đó, lực lượng Công an đã đưa D về Công an Phường 17, quận B lập biên bản phạm tội quả tang.

Tiếp tục mở rộng điều tra, vào lúc 21 giờ 30 phút cùng ngày 21/3/2017 tại khu vực đường Ph, Phường 19, quận B, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý - Công an Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang đối với Trương Minh Th có hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý (bút lục 30 31), qua kiểm tra thu giữ trên xe gắn máy biển số 71H8-7255 do Th đang sử dụng có 01 túi xách, bên trong có 10 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 9999,lg loại Methamphetamine (Kết luận giám định số 655/KLGĐ-H ngày 05/4/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh). Sau đó, lực lượng Công an đã đưa Th về Công an Phường 19, quận B lập biên bản phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra, Trần Xuân D khai đã mua ma tuý từ đối tượng tên T (chưa rõ lai lịch) là người D quen trước đây khi còn ở trại giam. Sau đó, D bán ma tuý lại cho đối tượng tên Tuấn Ch (chưa rõ lai lịch) nhưng do Trương Minh Th là người nhận hàng cho Tuấn Ch. Từ tháng 3/2017 cho đến khi bị bắt, Th đã nhận ma tuý từ D tổng cộng 02 lần, cụ thể như sau:

- Lần thứ 1: Th đến gặp D tại đường V, quận B nhận 01 bịch đồ mang sang khu vực Quận 8 giao cho một người tên Bé H (không rõ lai lịch).

- Lần thứ 02: vào khoảng 19 giờ ngày 21/3/2017, D điện thoại cho Th hẹn đến ngã ba Ng3 - X, quận B để nhận ma tuý là 01 túi màu xanh có chứa 9.999,l0g MA, giá tiền hơn 3.000.000.000 đồng. Sau khi nhận ma tuý và thanh toán tiền cho D, Th trên đường mang ma tuý về đến đường Ph, quận B thì bị lực lượng Công an bắt giữ.

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số 441/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định.

Tuyên bố Trần Xuân D và Trương Minh Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi năm 2009).

Xử phạt bị cáo Trần Xuân D: Tử hình.

- Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; điểm p, q khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi năm 2009).

Xử phạt bị cáo Trương Minh Th: Tử hình.

- Án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 27/11/2018 bị cáo Trần Xuân D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị đánh giá lời khai ban đầu và lời khai lại trong quá trình điều tra.

- Ngày 26/11/2018 bị cáo Trương Minh Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị đánh giá lời khai ban đầu và lời khai lại trong quá trình điều tra.

* Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Về thời gian bắt giữ theo kết luận điều tra, cáo trạng, bản án sơ thẩm mâu thuẫn với biên bản phạm tội quả tang khi bắt giữ các bị cáo từ đó có mâu thuẫn về lời khai cũng như tính lô gích về việc Th mua ma túy của D.

Song trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra không mời luật sư dự các buổi hỏi cung, chỉ có biên bản hỏi cung cuối cùng có luật sư tham gia, nhưng bản cung này bị cáo không thừa nhận có việc mua bán ma túy.

Theo lời khai của Th bán ma túy cho D 10 kg ma túy, D giao số tiền là 3.500.000.000 đồng nhưng khi bắt giữ D ngay sau đó thì chỉ thu được 3.100.000.000 đồng, cần phải chứng minh D bán cho Th lượng ma túy để buộc tội bị cáo D phải chịu trách nhiệm số ma túy thu giữ của Th. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Th không thừa nhận số ma túy bị bắt là mua của D mà khai rằng đó là số ma túy của Tuấn Ch giao cho Th giữ. Các biên bản hỏi cung của cơ quan điều tra đối với các bị cáo không có luật sư tham gia là không đảm bảo khách quan, không phù hợp với điểm a khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Hành vi của các bị cáo có dấu hiệu của tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy án sơ thẩm để điều tra xét xử lại.

Bào chữa cho hai bị cáo các luật sư cho rằng: Khi bắt giữ số lượng ma túy, cơ quan điều tra biết khung hình phạt các bị cáo phải đối diện, nhưng suốt trong quá trình lấy lời khai của các bị cáo không có luật sư tham dự là vi phạm tố tụng và các bản khai đó không được xem là chứng cứ. Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo khai bản cung cuối cùng có chữ ký của luật sư nhưng thực tế các luật sư không dự hỏi cung mà chỉ là kết thúc bản hỏi cung luật sư vào ký mà thôi. Tôi đề nghị Hội đồng xét xử lưu ý lời khai này. Biên bản bắt giữ và kết luận điều tra, cáo trạng, bản án sai về thời gian khác nhau, nếu bị cáo D bị bắt trước thì không bao giờ D khai đã mua bán ma túy cho Th để bắt Th. Do vậy việc kết luận D bán ma túy cho Th là chưa phù hợp. Tuấn Ch mà bị cáo Th khai và đã nhận dạng được, cấp sơ thẩm không xem xét hành vi của Tuấn là bỏ lọt tội. Hành vi của các bị cáo có dấu hiệu của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nếu buộc tội các bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là chưa có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử lưu ý quan tâm khung hình phạt của hai tội danh này khác nhau, việc tước đoạt sinh mạng một người rất quan trọng sao không kết luận ở một tội danh có lợi cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay các bị cáo cụ thể bị cáo Trần Xuân D phủ nhận lời khai tại cơ quan điều tra, nhất là những lời khai không có luật sư tham gia, không thừa nhận có mua bán ma túy với bị cáo Trương Minh Th. Bị cáo Th tại phiên tòa không thừa nhận bị cáo mua ma túy từ bị cáo D, số lượng ma túy bị bắt là do bị cáo giữ của một người tên Tuấn Ch, bị cáo không mua bán ma túy với D. Căn cứ các chứng cứ có tại hồ sơ, có đủ căn cứ buộc tội các bị cáo đối với số lượng ma túy bắt giữ được của từng bị cáo. Tuy nhiên quá trình điều tra, truy tố, xét xử ở cấp sơ thẩm đã có những thiếu sót, vi phạm tố tụng. Cụ thể:

[1] Theo như kết luận điều tra, cáo trạng và bản án sơ thẩm nêu: Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 21/3/2017, tại khu vực đường Ng3, Phường 17, quận B bắt quả tang Trần Xuân D tàng trữ số lượng ma tuý mà theo kết luận giám định là 1586,52g loại MDMA và 997,67g loại Ketamine. Mở rộng điều tra vào lúc 21 giờ 30 phút cùng ngày 21/3/2017 tại khu vực đường Ph, Phường 19, quận B bắt quả tang Trương Minh Th có hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý mà kết luận giám định khối lượng 9999,lg ma túy loại Methamphetamine. Trong khi đó biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Xuân D là 20 giờ 20 phút (không phải là 19 giờ 30 phút) và biên bản bắt Trương Minh Th là 19 giờ 30 phút (không phải là 21 giờ 30 phút) như kết luận điều tra, cáo trạng và bản án sơ thẩm nêu. Do đó, việc cáo trạng nêu tiếp tục mở rộng điều tra và tiến hành bắt giữ Th là không lo gích về mặt thời gian đối với biên bản bắt người phạm tội quả tang của từng bị cáo. Các bị cáo chối tội về việc mua bán ma túy, nếu không có giải thích rõ những mâu thuẫn trên của cơ quan tố tụng của cấp sơ thẩm sẽ xuất hiện mâu thuẫn về thời gian cho việc kết luận ai bán ma túy cho ai và lập luận trong buộc tội về hành vi mua bán hay tàng trữ trái phép chất ma túy đối với các bị cáo.

[2]- Các bị cáo bị bắt quả tang đối với số lượng lớn ma túy, khung hình phạt cao, quá trình lấy lời khai đối với các bị cáo không có luật sư tham gia, chỉ có bản cung cuối cùng mới có luật sư tham gia, tuy nhiên bản cung có luật sư tham gia bị cáo Trần Xuân D, không thừa nhận có mua bán ma túy với Trương Minh Th. Suốt trong thời gian dài từ ngày 21/3/2017 (ngày bị bắt) đến ngày 31/12/2017 các bản cung bị cáo D không luật sư tham gia, bị cáo Th từ ngày 28/6/2017 mới có luật sư tham dự là vi phạm tố tụng. Để có cơ sở buộc tội các bị cáo thực hiện hành vi mua bán hay tàng trữ trái phép chất ma túy cần tiến hành điều tra làm rõ việc mua bán ma túy giữa bị cáo D và bị cáo Th đối với số lượng ma túy thu giữ được của các bị cáo.

[3]- Trong vụ án này Tuấn Ch là một mắt xích quan trọng, bị cáo Th trực tiếp mua bán ma túy với Trần Xuân D hay là người nhận ma túy thay cho Tuấn Ch? Th đã nhận dạng được Tuấn, biết địa chỉ và số điện thoại, cơ quan điều tra, cấp sơ thẩm không truy tố xem xét hành vi của Tuấn ngay trong vụ án này là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

Từ những phân tích trên cho thấy việc đại diện Viện kiểm sát đề nghị hủy toàn bộ án sơ thẩm, giao về cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại là cần thiết, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và các chứng cứ có tại hồ sơ nên chấp nhận.

Do án sơ thẩm bị hủy, nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 441/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Chuyển hồ sơ vụ án về Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra lại.

Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 531/2019/HS-PT ngày 18/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:531/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về