Bản án 529/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 529/2019/HS-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở TAND Thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 523/2019/TLST-HS ngày 04/11/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 536/2019/QĐXXST-HS ngày 06/11/2019 đối với bị cáo:

- Vũ Đức D, sinh năm 1985 tại tỉnh Đồng N. Nơi cư trú: số nhà 20/21, khu phố 4, phường H, thành phố B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Mạnh Q (còn sống) và bà Phạm Thị Thu V (Còn sống); Bị cáo có 01 con chung với chị Dương Kim T, con sinh năm 2015 (không đăng ký kết hôn); Hiện đang sống chung như vợ chồng với Ngô Thị Ngọc T; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26/04/2019 đến ngày 04/5/2019 hủy bỏ biện pháp tạm giữ và cấm đi khỏi nơi cư trú số 149 ngày 04/5/2019 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên H, có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Ngọc T, sinh năm 1988. Trú tại: 20/21, khu phố 4, phường Hố N, thành phố Biên H, tỉnh Đồng N; Chị Vũ Thị Phương D, sinh năm 1991. Trú tại: 33A/69, khu phố 10, phường H, thành phố B, tỉnh Đ; Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1937. Trú tại: 20/21, khu phố 4, phường H, thành phố B, tỉnh Đ ( anh T, chị D và bà X có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Ngọc N, sinh năm 1959. Trú tại: A 17, khu phố 6, phường Tân Tiến, thành phố Biên H, tỉnh Đồng N ( vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vũ Đức D là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 12 giờ ngày 01/4/2019, D đến khu vực gần quán Karaoke Hoàng Sơn thuộc phường Tân Phong, thành phố B, tỉnh Đ mua của người thanh niên (không rõ lai lịch) 22 (hai mươi hai) gói ma túy (Heroin) và 06 (sáu) gói ma túy tổng hợp (ma túy đá), với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Sau khi mua, D đem số ma túy nêu trên về nhà D ở số 20/21, khu phố 4, phường H, thành phố B, tỉnh Đ cất giấu để sử dụng. D đã sử dụng hết 01 (một) gói ma túy loại Heroin và 01 (một) gói ma túy tổng hợp.

Đến 09 giờ 50 phút ngày 26/4/2019, D để 21 gói ma túy (Heroin) và 05 gói ma túy (ma túy tổng hợp) ở trong gói thuốc lá Jet cất giấu trên người rồi điều khiển xe mô tô biển số 60B9-536.00 đến quán nước mía trước cổng Công ty Điện lực Đồng N thuộc khu phố 2, phường Tân Hiệp, thành phố H, tỉnh N ngồi uống nước chờ bạn đi chơi. D để gói thuốc Jet bên trong chứa số ma túy nêu trên ở mặt bàn vị trí trước mặt D thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04) Công an tỉnh N kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

* Vật chứng, tài sản đồ vật thu giữ:

- 21 (hai mươi mốt) đoạn (gói) ống nhựa màu trắng hàn kín hai đầu, dài 1cm bên trong chứa chất bột màu trắng được niêm phong có chữ ký của Vũ Đức D(kí hiệu M1).

- 05 (năm) gói nylon, kích thước 1x1cm hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong có chữ ký của Vũ Đức D(kí hiệu M2).

- 01 (một) điện thoại Iphone màu đỏ, số imei 357360093496419, số thuê bao 0938.005.505 là tài sản của chị Ngô Thị Ngọc T (sinh năm 1986, cư trú tại khu phố 4, phường Hố N, thành phố Biên H, tỉnh Đồng N) cho Vũ Đức Dmượn sử dụng, không liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã giao trả điện thoại trên cho chị T (Bút lục số 02,72, 75).

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki màu đỏ biển số 60B9-536.00, 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 60B9-536.00, là tài sản của anh Vũ Ngọc T (em ruột của D) nhờ D đứng tên chủ sở hữu. Anh T cho D mượn xe mô tô nhưng không biết D sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã giao trả xe mô tô xe mô tô 60B9-536.00 và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 60B9-536.00 cho anh Vũ Ngọc T (Bút lục số 02, 64,65,66, 70,71, 73,74).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen số imei 359000095264682, số thuê bao 0994.500.515; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng có số imei 3572710981238884, số thuê bao 0779.939.939 của Vũ Đức D không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra đã giao trả 02 điện thoại di động trên cho Vũ Đức D (Bút lục số 02, 76).

- Số tiền 2.800.000đ (hai triệu tám trăm nghìn đồng) và 01 (một) chứng minh nhân dân của Vũ Đức D không liên quan đến vụ án.

*Tại Kết luận giám định số 316/PC09-GĐMT ngày 02/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh N đã kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng (Kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,7305 gam, loại: Heroin (Heroine).

- Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,4680 gam, loại: Methamphetamine.

Tại cáo trạng số 530/CT/VKSBH-HS, ngày 31/10/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo Vũ Đức D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa bị cáo trình bày: Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo đúng pháp luật. Bị cáo không có ý kiến gì thêm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày: Xe mô tô biển số 60B9- 536 là tài sản của anh Vũ Ngọc T và chị Vũ Thị Phương D, khi mua xe do mất giấy chứng minh nhân dân nên anh T có mượn giấy chứng minh nhân dân của bị cáo D và mượn bà Nguyễn Thị X số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) để mua xe, khi bị cáo D mượn xe, anh T và chị D không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh T, chị D . Do bân công việc nên anh T, chị D và bà X có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Vũ Đức D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về nhân thân: Bị cáo D không có tiền án, tiền sự -Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo đang bị nhiễm HIV và trong thời gian điều trị. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo D.

-Về mức hình phạt: Đề nghị Hội Đồng xét xử xử phạt bị cáo Vũ Đức D từ 12 (mười hai) đến 18(mười tám) tháng tù.

-Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H tuyên: Tịch thu tiêu huỷ số lượng ma túy còn lại sau giám định; Giao trả 2.800.000đ (Hai triệu tám trăm nghìn đồng) của Vũ Đức D do không liên quan đến vụ án.

-Đối với đối tượng bán ma túy cho Vũ Đức D do không rõ lai lịch cơ quan cảnh sát điều tra thành phố H tiếp tục làm rõ và xử lý sau.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và các chứng cứ khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Thực tế có cơ sở chứng minh, Vào lúc 09 giờ 50 phút ngày 26/4/2019, tại quán nước mía trước cổng Công ty Điện lực N thuộc phường Tân Hiệp, thành phố H, tỉnh N, Vũ Đức D có hành vi tàng trữ trái phép 0,7305 gam ma túy, loại Heroin (Heroine) và 0,4680 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04) Công an tỉnh N kiểm tra phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS năm 2015.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nòi giống và gây mất trật tự trị an cho xã hội.

[4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H thì thấy: Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự; tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo đang điều trị HIV nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành 01 người công dân có ý thức tuân thủ pháp luật.

[5]Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H: Tịch thu tiêu huỷ số lượng ma túy còn lại sau giám định; Giao trả số tiền 2.800.000đ (Hai triệu tám trăm nghìn đồng) của Vũ Đức D do không liên quan đến vụ án.

Đối với chứng minh nhân dân số 271683669 cấp ngày 20/8/2015 và 02 chiếc điện thoại hiệu Nokia và iphone do không liên quan đến việc phạm tội, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho bị cáo Vũ Đức D nên Hội đồng xét xử không phải giải quyết.

Xét đề nghị của đại diện VKS thành phố H phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Cần buộc bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Vũ Đức D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Vũ Đức D 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù (nhưng được trừ đi thời gian bị cáo D đã bị tạm giam từ trước từ ngày 26/04/2019 đến ngày 04/05/2019).

2. Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm b khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong sau giám định số 316/PC09-GĐMT ngày 02/5/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N. Trả lại cho bị cáo Vũ Đức D số tiền 2.800.000đ ( hai triệu tám trăm ngàn đồng) (Số tiền và vật chứng được thể hiện tại biên bản giao nhận lập ngày 05/11/2019 và biên lai thu tiền số 09818 ngày 05/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh N).

3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày. Người có mặt tính từ ngày tuyên án, người vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yêt theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 529/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:529/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về