TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 52/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2020 (Sau đây viết tắt là: 15/9/2020) theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2020/QĐXXST-HS ngày 15/9/2020, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn D, sinh năm 1979 tại tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị T (đều đã chết); vợ: Đào Thị P và 02 con (Lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2008); tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16/7/2020 và chuyển tạm giam từ ngày 22/7/2020 đến nay; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phạm Thị N - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
- Người tham gia tố tụng khác:
+ Người làm chứng: Anh Trần Văn P; vắng mặt.
+ Người chứng kiến: Ông Trần Văn T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 18h20’ ngày 16/7/2020, tại trục đường bê tông liên xã thuộc khu vực thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam, Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã N đang làm nhiệm vụ thì phát hiện Nguyễn Văn D đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra hành chính thì phát hiện, thu giữ trong lòng bàn tay trái của D một đoạn ống nhựa màu xanh, hàn kín hai đầu, dài khoảng 2,5 cm, mở ra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01), D khai là ma túy mua về để sử dụng cá nhân. Ngoài ra, còn thu giữ một điện thoại di động trong túi quần phía trước của D (niêm phong lần lượt trong phong bì ký hiệu QT02).
* Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn D: Không thu giữ được tài sản, đồ vật gì liên quan đến vụ án.
* Tại kết luận giám định số 126/PC09-MT ngày 20/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,201g (Không phảy hai trăm linh một gam), loại: Heroine”.
* Nguyễn Văn D khai về nguồn gốc số Heroine thu giữ: Khoảng 18h ngày 16/7/2020, D đi nhờ xe của một người đi đường (không quen biết) đến khu vực chợ thuộc thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam mua ma túy của một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Sau đó, đi bộ tìm nơi để sử dụng thì bị bắt quả tang.
* Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện.
Tại bản cáo trạng số 53/CT-VKSLN ngày 03/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Văn D về tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
* Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá toàn diện vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là: HĐXX): Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Văn D từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, đồng thời đề xuất hướng xử lý vật chứng hiện đang thu giữ.
- Bị cáo Nguyễn Văn D đã thừa nhận và khai báo toàn bộ động cơ, mục đích cũng như diễn biến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy vào ngày 16/7/2020 đúng như nội dung cáo trạng đã nêu và không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì. Bị cáo không có ý kiến gì đối với các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, kết luận giám định và lời khai của người tham gia tố tụng khác trong vụ án, bản thân đã nhận thức lỗi lầm,đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
- Người bào chữa cho bị cáo tr×nh bÇy tại bản luận cứ: kháng cáo ý kiến tranh luaajn về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo: chỉ phân tích về nhân thân, thái độ thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, điều kiện hoàn cảnh khó khăn của bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm mức hình phạt và xử phạt bị cáo với mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với diễn biến vụ án ghi nhận tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, các vật chứng đã thu giữ tại hiện trường, bản kết luận giám định về ma túy, cũng như chính lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, ngoài ra còn phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.
Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Hồi 18h20’ ngày 16/7/2020, tại trục đường bê tông liên xã thuộc khu vực thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn D đang có hành vi cất giữ trái phép 0,201 (Không phẩy hai trăm linh một) gam chất ma túy, loại Heroine để sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện Lý Nhân bắt quả tang.
Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn D đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Quan điểm kết tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đảm bảo căn cứ pháp luật.
[2] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với chất ma tuý, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bản thân bị cáo là người đã có gia đình ổn định, nhưng lại không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, sống có trách nhiệm với gia đình, lại thể hiện lối sống buông thả, ngoài vòng pháp luật, nên đã sa vào con đường nghiện ngập ma tuý, dẫn đến phạm tội. Hành vi này còn ®e dọa trực tiếp đến chính sức khỏe và cuộc sống gia đình bị cáo, gây bất bình trong nhân dân, làm xã hội mất ổn định.
Vì vậy, cần thiết phải xử lý nghiêm minh, áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, cũng như đáp ứng công tác phòng ngừa tội phạm chung trong cộng đồng, đặc biệt là tội phạm về ma túy đang diễn ra rất phức tạp trong tình hình hiện nay.
- Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân, thể hiện sự ăn năn hối cải; gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. HĐXX sẽ cân nhắc yếu tố nhân thân và các tình tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình, thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.
Xét thấy cần tiếp tục tạm giam đối với Nguyễn Văn D để đảm bảo thi hành án, nên Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án.
[3] Về hình phạt bổ sung: Xét mục đích phạm tội của bị cáo không để thu lợi bất chính nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (là phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Điều 35 và khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[4] Về xử lý vật chứng:
- Số Heroine thu giữ của Nguyễn Văn D cùng bao gói, được Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam hoàn trả sau giám định, không có giá trị sử dụng, nên tịch thu và tiêu huỷ.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ ngoài màu xanh, đã cũ qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên, tiếp tục thu giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án dân sự.
[5] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng đã thực hiện và ban hành đều hợp pháp, tuân thủ các nguyên tắc tố tụng cũng như đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao theo quy định.
[6] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.
[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật.
[8] Về vấn đề khác: Trong vụ án này, Nguyễn Văn D khai đi nhờ xe của một người đi đường (không quen biết) đến khu vực chợ thuộc thôn T, xã N, sau đó mua ma túy của một người thanh niên (không biết tên, tuổi, địa chỉ ). Ngoài lời khai duy nhất của bị cáo, không có thông tin chính xác về các đối tượng trên nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật, do đó HĐXX không đề cập.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn D 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/7/2020.
[2] Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu và tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong số 126/PC09-MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam, ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”.
- Trả lại cho Nguyễn Văn D: 01 (Một) điện thoại di động NOKIA, vỏ ngoài màu xanh, đã cũ qua sử dụng, trong máy có một cục pin và một sim điện thoại (Tiếp tục thu giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án dân sự).
(Các vật chứng có đặc điểm, tình trạng, số hiệu được ghi trong biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 04/9/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Lý Nhân và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lý Nhân).
[3] Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:
- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn D phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
- Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 52/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 52/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về