Bản án 52/2020/HSST ngày 27/08/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 52/2020/HSST NGÀY 27/08/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 27 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1962 tại tỉnh Nam Định;

Tạm trú: Tổ 13, khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nghề nghiệp: Giết mỗ heo; trình độ học vấn: 04/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Cha: Nguyễn Văn L (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1934; Vợ: Lâm Thị N (đã chết - bị hại trong vụ án); Có 04 người con: lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2004.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt ngày 03/02/2020 (Có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Bà Lâm Thị N, sinh năm 1968, trú khu phố Hải Bình, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, (đã chết trong vụ án).

Đại diện hợp pháp của bị hại:

1/ Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990.

2/ Nguyễn Văn H, sinh năm 1992.

3/ Nguyễn Văn T, sinh năm 1996.

4/ Nguyễn Thị V, sinh năm 2004.

Địa chỉ: Tổ 13, khu phố Hải Bình, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (là các con của bị hại, có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Đ: Luật sư Trần Công Nga – Đoàn Luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo hồ sơ vụ án và theo diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Đ và bà Lâm Thị N (sinh năm 1968, trú khu phố Hải Bình, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) là vợ chồng từ năm 1987. Trong cuộc sống thường xảy ra cãi vã, do Đồng hay ghen tuông và nghi ngờ bà N có quan hệ bất chính với người đàn ông khác nên nảy sinh ý định giết bà N. Khoảng 1h00’ ngày 03/02/2020, Đồng lấy cây chĩa điện, cán bằng tre khô dài 59cm, đầu có gắn 02 thanh kim loại tròn, mũi nhọn và nối với 02 đoạn dây điện (dây thứ nhất màu đỏ nối tiếp dây màu xanh, dây thứ hai màu xám), đầu có phích cắm. Đồng vào phòng ngủ bà N, thấy bà N đang ngủ, người nằm sấp, mặt quay vào tường. Đồng cắm phích vào ổ điện trên tường (phía đầu giường), rồi dí (chích) đầu cây chĩa điện vào vùng gáy bà N làm bà N bị điện giật tử vong. Thấy bà N đã chết, Đồng lật bà N nằm ngữa, đầu hướng ra phía cửa, lấy chăn đắp lên người bà N. Sau đó, Đồng đem cây chĩa điện cất giấu ở bồn chứa giấy thải trong nhà vệ sinh, rồi vào nằm ngủ trên chiếc võng ở phòng khách. Đến 6h30 cùng ngày con gái bà N là cháu Nguyễn Thị V vào phòng bà N phát hiện bà N đã tử vong nên trình báo Cơ quan Công an điều tra, xử lý (BL: 57-63).

*Kết quả giám định:

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 58/PC09-Đ2-PY ngày 03/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đối với Lâm Thị N như sau:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

Vết tH bỏng – cháy da xám đen nhăn nhúm vùng cổ sau lệch phải, kích thước 4cm x 0,8cm, bờ vết cháy khô cứng, vết cháy có đường dò sâu vào trong – xuống dưới khoảng 3cm, bờ và đáy đường dò cháy đen khô. Vết bỏng – cháy da cạnh vết cháy xám đen 1,3cm về phía bên phải, kích thước 1cm x 0,5cm. Tim sung huyết; xuất huyết dạng chấm – mảng thượng tâm mạc. Phổi phù cấp, sung huyết; mắt cắt nhu mô phổi tràn dịch máu. Kết quả vi thể: tổ chức da cổ bị bỏng do tiếp xúc điện, phù nề, sung huyết nặng ở phổi.

- Nguyên nhân chết: Lâm Thị N chết do Shock không hồi phục do điện giật.

- Các kết luận khác: Tổn thương bỏng, cháy da cơ vùng cổ là do vật bằng kim loại tích điện tác động trực tiếp vào vùng cổ cơ thể nạn nhân hướng từ sau ra trước (BL: 79, 80).

Tại bản Kết luận giám định số 1270/C09B ngày 06/3/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Trên cây chĩa kích điện gửi giám định có dính máu người. Phân tích AND từ mẫu máu này được một kiểu gen nữ giới hoàn chỉnh và trùng với kiểu gen của Lâm Thị N (BL: 83, 84).

Tại bản Kết luận giám định số 1271/C09B ngày 13 tháng 4 năm 2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phồ Hồ Chí Minh kết luận:

+ Hiện tại cây chĩa kích điện gửi giám định hoạt động bình thường. Khi được cấp điện lưới sinh hoạt với nguồn điện xoay chiều 220v-50Hz vào phích cắm điện của cây chĩa, xác định điện áp rò rỉ ra chĩa bằng kim loại là 210v.

+ Điện áp 210v (AC) là điện áp nguy hiểm đối với cơ thể người, khi tiếp xúc trực tiếp với điện áp này, người sẽ bị điện giật và có khả năng đẫn đến tử vong (BL 81, 82).

*Kết quả khám nghiệm hiện trường:

Tại phòng ngủ nhìn từ ngoài vào cửa phòng ngủ đang mở, không có dấu hiệu cạy phá, bên trái sát cửa có kê 01 giường kim loại được trãi chiếu cói. Trên giường có một tử thi đang nằm trên gối và được đắp 01 cái mền. Ngay dưới đầu tử thi, trên mặt gối có chất dịch đã khô thấm vào gối, tử thi trong tư thế nằm ngửa, đầu quay ra ngoài, hai tay, hai chân duỗi tự nhiên. Trên giường sát cửa phòng ngủ phía bên trái cách mặt đất 125cm có một ổ cắp điện loại 3 ổ cắm. Các vật dụng đồ đạc sinh hoạt không có dấu hiệu lục soát, xáo trộn (BL: 39).

*Về trách nhiệm dân sự:

Đại diện theo pháp luật của bị hại là các con của bà Lâm Thị N không yêu cầu về trách nhiệm dân sự.

*Về vật chứng:

- Vật chứng chuyển theo hồ sơ vụ án gồm:

+ 01 (một) đoạn tre khô dài 59cm; đường kính 02cm; 01 đầu cột 02 thanh kim loại tròn (01 cây có đầu nhọn phi 0,3cm, dài 13 cm, đầu nhọn nhô ra ngoài 5,5cm, 01 cây có đầu nhọn phi 0,3cm, dài 12cm, đầu nhọn nhô ra ngoài 6cm). Trên đầu nhọn hai đoạn kim loại có quấn 02 dây điện (gồm 01 dây điện màu đỏ nối với 01 đoạn dây màu xanh và 01 dây điện màu xám), đầu có phích cắm màu trắng (BL:93).

Tại bản Cáo trạng số 53/CT-VKS-P2 ngày 17 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa trong bản luận tội vị đại diện Viện kiểm sát đã nêu các tình tiết vụ án, tính chất nguy hiểm trong hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Giết người”, về hình phạt đề nghị áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 16 đến 18 năm tù.

Về bồi thường dân sự: Đại diện hợp pháp cho bị hại không yêu cầu.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Luật sư Trần Công Nga trình bày lời bào chữa cho bị cáo như sau: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, qua tham dự phiên tòa nghe Đại diện viện kiểm sát công bố cáo trạng, xét hỏi của Hội đồng xét xử và luận tội của Đại diện Viện kiển sát, luật sư nhận thấy cáo trạng truy tố bị cáo là đúng gười đúng tội nên luật sư không có ý kiến về tội danh và khung hình phạt.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự luật sư thống nhất theo ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử vận dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét cho bị cáo; ngoài ra bản thân bị cáo có thời gian phục vụ quân đội, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, từ đó luật sư đề nghị hội đồng xét xử vận dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo thống nhất theo phần bào chữa của luật sư và không có ý kiến gì thêm. Những ngưởi đại diện hợp pháp cho bị hại không có ý kiến tranh luận.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Qua xem xét toàn bộ hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử thấy rằng về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã tuân thủ nghiêm chỉnh theo thủ tục tố tụng trong việc thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, người đại diện hợp pháp cho bị hại và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có căn cứ xác định nội dung sự việc như sau:

Bị cáo Nguyễn Văn Đ và bị hại Lâm Thị N là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 1987 và có 04 người con. Trong khoảng thời gian Tết Canh Tý 2020, giữa bị cáo và bị hại có mâu thuẩn và hay cự cải đánh nhau do bị cáo nghi ngờ bị hại có qua lại với nhiều người đàn ông khác. Trong buổi chiều tối ngày 02/02/2020 bị cáo và bị hại tiếp tục có cự cãi nhau và được cháu Nguyễn Thị Vỹ can ngăn, sau đó bị hại đi ngủ. Do bị cáo nãy sinh ý định giết chết bị hại nên bị cáo đã sử dụng công cụ chích điện dùng để giết heo làm thịt, do bị cáo từng làm nghề giết mỗ heo tại nhà trong khoảng thời gian từ bảy đến tám năm trước, nên bị cáo có sẳn công cụ này. Đến khoảng 01 giờ ngày 03/02/2020 bị cáo Đồng vào phòng ngủ của bà N dùng cây chĩa điện, nối sẵn dây điện có phích cắm, cắm vào ổ điện trên tường gần cửa phòng ngủ rồi chích vào gáy bà N lúc bà đang ngủ làm bà N bị điện giật tử vong. Khi thấy bà N đã chết bị cáo đặt tư thế bà N nằm ngay ngắn trên giường và trùm mền lại như bà N đang ngủ. Đến sáng ngày cháu V và chị H là con bà N phát hiện bà N bị chết, phần cổ bà N bị sưng nề, phía sau gáy bà N có dấu chích điện nên đã báo Công an xử lý.

Kết quả điều tra xác định chính bị cáo Đồng đã giết bà N bằng cách chích điện làm bà N bị điện giật tử vong.

Xét thấy: Chỉ vì nghi ngờ nhưng không có căn cứ nào cho rằng bà N có quan hệ bất chính với người khác, bị cáo đã nhẫn tâm dùng cây chĩa chích điện giết chết bà N. Hành vi giết người của bị cáo thể hiện tính chất côn đồ; ngoài ra bị cáo làm nghề giết mỗ heo trong thời gian dài bằng cách chích điện cho heo chết trước khi mỗ heo, nên bị cáo có sẳn công cụ chích điện trong nhà và dùng công cụ này giết chết bà N, vì thế có căn cứ xác định bị cáo giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp, vì thế có căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Giết người” theo điểm n, k khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

Hội đồng xét xử xét thấy: Tính mạng, sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên bị cáo vì nghi ngờ vợ mình có quan hệ bất chính với người khác nên đã nhẫn tâm tước đoạt sinh mạng của người bị hại; là vợ, là mẹ của 04 người con của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo đã để lại sự tổn thương, mất mát to lớn về tình cảm ngay trong chính gia đình của bị cáo và không có gì bù đắp được; hành vi phạm tội của bị cáo còn gây mất trật tự trị an nghiêm trọng tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân nơi bị cáo tạm trú. Vì thế đối với bị cáo cần có hình phạt nghiêm minh đủ có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng chống tội phạm chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) đoạn tre khô dài 59cm; đường kính 02cm; 01 đầu cột 02 thanh kim loại tròn (01 cây có đầu nhọn phi 0,3cm, dài 13 cm, đầu nhọn nhô ra ngoài 5,5cm, 01 cây có đầu nhọn phi 0,3cm, dài 12cm, đầu nhọn nhô ra ngoài 6cm). Trên đầu nhọn hai đoạn kim loại có quấn 02 dây điện (gồm 01 dây điện màu đỏ nối với 01 đoạn dây màu xanh và 01 dây điện màu xám), đầu có phích cắm màu trắng. [6] Về trách nhiệm dân sự:

Đại diện hợp pháp cho bị hại không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xét đến. [7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội Giết người”.

Áp dụng điểm n, k khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn Đ 20 (hai mươi) năm tù. Thi hạn tù tính từ ngày 03/02/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) đoạn tre khô dài 59cm; đường kính 02cm; 01 đầu cột 02 thanh kim loại tròn (01 cây có đầu nhọn phi 0,3cm, dài 13 cm, đầu nhọn nhô ra ngoài 5,5cm, 01 cây có đầu nhọn phi 0,3cm, dài 12cm, đầu nhọn nhô ra ngoài 6cm). Trên đầu nhọn hai đoạn kim loại có quấn 02 dây điện (gồm 01 dây điện màu đỏ nối với 01 đoạn dây màu xanh và 01 dây điện màu xám), đầu có phích cắm màu trắng.

(Vật chứng trên hiện Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản bàn giao số 51/BB-CTHADS ngày 19/6/2020).

3. Về án phí:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo, đại diện hợp pháp bị hại có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh để yêu cầu xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

381
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HSST ngày 27/08/2020 về tội giết người

Số hiệu:52/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về