Bản án 52/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 52/2020/HS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN THẾ A, sinh ngày 30 tháng 8 năm 1992 tại xã D, huyện T, Thành phố Hà Nội Nơi cư trú: Thôn Đ, xã D, huyện T, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Tiến H và bà Nguyễn Thị Q; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không, Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 03/4/2018, bị cơ quan CSĐT Công an TP Hà Nội khởi tố bị can đối với Nguyễn Thế A về tội Gây rối trật tự công cộng, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, đã bị VKSNDTP Hà Nội truy tố ra trước Tòa án nhân dân TP Hà Nội, hiện chưa xét xử; bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2020 đến nay tại Trại tạm giam số 1 Công an TP Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. TRẦN VĂN PH, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1995 tại xã Đ, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Nơi cư trú: Thôn D, xã Đ, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn C và bà Nguyễn Thị H; Vợ: Phùng Thị H1; Con: Có 01 con sinh năm 2016; Tiền án: Không, Tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt; bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2020 đến nay tại Trại tạm giam số 1 Công an TP Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. PHAN D (tc Th), sinh ngày 30 tháng 7 năm 1998 tại xã L, huyện Ph, tỉnh Thừa Thiên Huế Nơi cư trú: Thôn C, xã L, huyện Ph, tỉnh Thừa Thiên Huế; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan Kh và bà Nguyễn Thị Trà M; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không, Tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt; bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2020 đến nay tại Trại tạm giam số 1 Công an TP Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Bùi Anh T, sinh năm 1983 (Có mặt)

Địa chỉ: Phường X, quận B, TP Hà Nội

Chức vụ: Đại úy Đơn vị công tác: Công an xã T, huyện P, TP Hà Nội;

Người làm chứng:

- Ông Đỗ Văn T1, sinh năm 1989 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Xã Ph, huyện P, TP Hà Nội;

- Ông Nguyễn Xuân K, sinh năm 1957 (Có mặt)

Địa chỉ: Thôn T1, xã T, huyện P, TP Hà Nội;

- Ông Lê Đức V, sinh năm 1953 (Có mặt)

Địa chỉ: Thôn T1, xã T, huyện P, TP Hà Nội;

- Chị Phan Thị Lan A1, sinh năm 1994

Địa chỉ: Thôn T3, xã T, huyện P, TP Hà Nội;

- Chị Trần Thị V, sinh năm 1980

Địa chỉ: Thôn T1, xã T, huyện P, TP Hà Nội;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/4/2020, Công an xã T tổ chức lực lượng tuần tra kiểm soát theo kế hoạch số 02/KH-CAX ngày 26/02/2020 về việc “Thực hiện công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng” và kế hoạch số 07/KH-CAX ngày 19/3/2020 về “Phối hợp đảm bảo ANTT trong phòng chống dịch bệnh Covid- 19” trên địa bàn xã T. Tổ công tác gồm 03 đồng chí: Thượng úy Đỗ Văn T1, chức vụ Phó trưởng Công an xã T; Đại úy Bùi Anh T là Công an viên (Công an chính quy) và đồng chí Trịnh Văn L là Công an viên (Công an bán chuyên trách), các đồng chí Công an đều mặc trang phục của ngành theo quy định, làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự trên các tuyến đường giao thông liên thôn, liên xã và phối hợp với các chốt kiểm soát dịch Y tế trên địa bàn xã T, huyện Phúc Thọ.

Khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày, tổ công tác đang làm nhiệm vụ phối hợp với Chốt kiểm soát Y tế trên tuyến đường vào thôn T1, xã T, thì phát hiện thấy Trần Văn Ph (Sinh năm 1995; trú tại: thôn D, xã Đ, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang) điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen trắng, biển kiểm soát 29L1- 001.10 chở phía sau là Nguyễn Thế A (Sinh năm: 1992; trú tại: thôn Đ, xã D, huyện T, TP. Hà Nội ); Phan D (Sinh năm: 1998; trú tại thôn C, xã L, huyện Ph, tỉnh Thừa Thiên Huế) điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Airblade, màu đen bạc, biển kiểm soát 29F1-016.48 chở phía sau là Hoàng Kim L (Sinh năm: 1980, trú tại: Khu Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ), đi từ hướng cổng làng Tr vào thôn T1, xã T. Thấy cả 04 (bốn) người đều không đội mũ bảo hiểm, xe máy không lắp gương chiếu hậu, vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, nên đồng chí Bùi Anh T ra hiệu lệnh dừng xe kiểm tra hành chính, yêu cầu xuất trình giấy tờ liên quan đến xe máy, giấy phép lái xe, giấy tờ tùy thân, nhưng các đối tượng đều không chấp hành mà có lời nói tục tĩu xúc phạm, lăng mạ, thách thức. Lúc này, đồng chí T1 cùng đồng chí T giải thích và yêu cầu các đối tượng nghiêm túc chấp hành và dắt xe gọn vào lề đường để tránh ùn tắc giao thông nhưng các đối tượng vẫn không chấp hành, nên đồng chí T đã dắt cả 02 chiếc xe máy của các đối tượng vào lề đường để xử lý theo quy định. Thấy các đối tượng không chấp hành mà còn to tiếng chửi bới xúc phạm, thách thức tổ công tác, nên đồng chí T lấy điện thoại di động quay ghi hình lại diễn biến sự việc. Hoàng Kim L chửi “Đ. mẹ chúng mày, bảo kiểm tra dịch bố mày còn nghe được, quyền l. gì mà kiểm tra giao thông, đ. mẹ bố mày nói cho chúng mày như thế”; sau đó L chỉ tay về phía đồng chí T chửi “Thằng chó kia đ. mẹ quay cái đ. con mẹ chúng mày à ”, “Thẳng cho mày nhớ mặt bố mày đấy”. Lúc đó, Trần Văn Ph đang đứng cách đồng chí T khoảng 03 mét đi lại áp sát gần đồng chí T dùng tay gạt điện thoại, không cho đồng chí T quay và nói “Anh quyền l. gì anh quay”, Phan D lao vào nói “Anh quay ai” và dùng tay đẩy vào ngực, dùng chân đạp vào đùi đồng chí T. Thấy đồng chí T vẫn tiếp tục quay video, nên D chỉ tay vào mặt đồng chí T nói “Đ. mẹ bố mày nói cho mày nghe nhé, mày quay cái đ. con mẹ mày không xin phép tao à, đ. con mẹ chúng mày”. Lúc này, Hoàng Kim L chỉ tay về phía 02 chiếc xe máy liên quan đang dựng ở lề đường và nói “Lấy xe về cho tao”, thì P và D đi lại dắt 02 chiếc xe máy ra định bỏ đi, thì đồng chí T và đồng chí T1 yêu cầu các đối tượng để xe lại và chấp hành việc kiểm tra giao thông. Hoàng Kim L liền nói “Thằng nào giữ, đ. mẹ thằng nào giữ”, Thế A cũng nói “Ông quyền l. gì giữ xe của tôi”, L nói tiếp “Mày chưa đủ quyền được kiểm tra xe ở đây nhé, bố nói cho mày biết”. Đồng thời, Ph dắt xe máy Sirius, biển kiểm soát 29L1- 001.10, D dắt xe máy Airblade, biển kiểm soát 29F1-016.48 nổ máy định đi, thì đồng chí T đứng ra phía trước đầu xe của Ph, cách khoảng 01 mét để ngăn cản không cho các đối tượng lấy xe đi. L nói tiếp “Bố mày lấy xe của bố mày đấy”, Thế A chửi “Đ. mẹ các ông nghĩ Công an mà chúng tôi sợ à, nhầm người rồi đấy, thích một chọi một không”. Thấy đồng chí T ngăn chặn không cho lấy xe đi, thì Ph nổ máy vào số điều khiển “bốc đầu” xe máy đâm thẳng vào đồng chí T và chửi “Đ. mẹ mày thích thế nào”, bánh xe trước va vào chân trái của đồng chí T làm bị đau nên đồng chí T phải lùi lại phía sau. Cùng lúc đó, L chạy từ phía sau xe máy của Ph điều khiển lên nhặt 01 đoạn gậy gỗ hình vuông, kích thước (6x6)cm, dài 60cm; Thế A nhặt 01 nửa viên gạch đặc, kích thước (10x10x5)cm ở ven đường, đe dọa, uy hiếp tổ công tác đang thực hiện công vụ, rồi Thế A ngồi lên xe máy do Ph điều khiển, L ngồi lên xe máy do D điều khiển đi khỏi hiện trường về hướng xã H. Ngay lúc đó, L vứt bỏ gậy gỗ, Thế A vứt bỏ viên gạch vỡ tại hiện trường.

Hu quả: Đồng chí Bùi Anh T bị chấn thương chầy sát mặt trước cẳng chân trái, kích thước (02x02) cm, cách gót chân 30 cm; Quá trình điều tra, đồng chí T có đơn từ chối không đi giám định thương tích.

Sau khi nhận được tin báo vụ việc, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phúc Thọ đã có mặt tại hiện trường tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu, thu giữ vật chứng tại hiện trường, thu giữ dữ liệu điện tử trong điện thoại di động của đồng chí Bùi Anh T. Qua xác minh ban đầu, xác định Hoàng Kim L, Nguyễn Thế A, Trần Văn Ph và Phan D là các đối tượng liên quan, có hành vi chống người thi hành công vụ. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phúc Thọ ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Thế A, Trần Văn Ph và Phan D dẫn giải về trụ sở giải quyết. Còn Hoàng Kim L bỏ trốn không rõ ở đâu.

Vt chứng thu giữ gồm:

- 01(một) xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen trắng, biển kiểm soát 29L1-001.10; số máy: 5C64-443140, số khung: RLCS5C640BY- 443140 (do Trần Văn Ph giao nộp).

- 01 (một) đoạn gậy gỗ hình vuông, kích thước (6x6) cm, dài 60 cm, một đầu vuông, một đầu vát; 01 (một) nửa viên gạch đặc, kích thước (10x10x5)cm. (do đồng chí Bùi Anh T giao nộp).

- 01(một) USB màu đen nhãn hiệu Le xar, bên trong USB lưu trữ 02 (hai) video (do đồng chí Bùi Anh T giao nộp).

Về vật chứng của vụ án, căn cứ tài liệu điều tra xác định: - Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen trắng, biển kiểm soát 29L1-001.10, số máy: 5C64-443140; số khung: RLCS5C640BY- 443140 do Trần Văn Ph giao nộp: Quá trình điều tra, Ph khai nhận mượn của anh Nguyễn Xuân C (Sinh năm: 1979, trú tại: thôn Q, xã H, huyện P). Quá trình làm việc với cơ quan điều tra, thì C khai nhận, mua chiếc xe máy trên ở một cửa hàng mua bán xe máy cũ tại trung tâm Hà Nội (nay không rõ địa chỉ), C cho Ph mượn xe máy để làm phương tiện đi lại, hoàn toàn không biết Ph sử dụng để vi phạm pháp luật. Kết quả tra cứu dữ liệu vật chứng, thấy không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, chủ xe là anh Đỗ Đắc Kh (Sinh: 1986, trú tại: TDP số 1, xóm Đ, xã Đ1, quận N, Hà Nội). Tiến hành ghi lời khai, anh Kh khai nhận, gia đình anh có chiếc xe máy có đặc điểm như trên, nhưng đã bán cho người khác, nay không nhớ bán cho ai. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe máy trên cho anh Nguyễn Xuân C là người đang quản lý hợp pháp, không có tranh chấp gì theo quy định của pháp luật.

- Đối với 01 (một) đoạn gậy gỗ hình vuông, kích thước (6x6)cm, dài 60cm, một đầu vuông, một đầu vát và 01 (một) nửa viên gạch đặc, kích thước (10x10x5)cm. Quá trình điều tra xác định, đây là vật chứng Hoàng Kim L và Nguyễn Thế A sử dụng để đe dọa, uy hiếp tổ công tác của Công an xã T đang thực hiện công vụ, để lấy lại xe máy vi phạm. Vì vậy, chuyển đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phúc Thọ bảo quản, chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

- Đối với 01 (một) USB màu đen nhãn hiệu Lexar, bên trong USB lưu trữ 02 (hai) video (do đồng chí Bùi Anh T giao nộp), chuyển theo hồ sơ vụ án.

Về vấn đề dân sự trong vụ án: Đồng chí Bùi Anh T bị thương tích nhẹ, không yêu cầu đề nghị bồi thường dân sự.

Đối với Hoàng Kim L, sau khi phạm tội đã bỏ trốn không rõ ở đâu, nên cơ quan điều tra đã ra lệnh truy nã, ra Quyết định tách vụ án hình sự, Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Hoàng Kim L, khi nào bắt được sẽ tiếp tục giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 10/7/2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ đã truy tố Nguyễn Thế A, Trần Văn Ph và Phan D về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự.

- Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Anh Bùi Anh T không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự và đề nghị HĐXX xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đi diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thế A, Trần Văn Ph và Phan D phạm tội “Chống người thi hành công vụ”;

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thế A từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 16/4/2020.

Bị cáo Trần Văn Ph, bị cáo Phan D từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 16/4/2020.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 01 (một) đoạn gậy gỗ hình vuông, kích thước (6x6)cm, dài 60cm, một đầu vuông, một đầu vát và 01 (một) nửa viên gạch đặc, kích thước (10x10x5)cm.

Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ đã truy tố. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Do vậy có đủ cơ sở để khẳng định:

[1] Chiều ngày 16/4/2020, tổ công tác của Công an xã T gồm đồng chí Thượng úy Đỗ Văn T1, chức vụ Phó trưởng Công an xã T; Đại úy Bùi Anh T và đồng chí Trịnh Văn L là Công an viên, đang làm nhiệm vụ tuần tra đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng và phối hợp đảm bảo an ninh trật tự trong phòng chống dịch bệnh Covid-19 tại Chốt kiểm dịch Y tế trên đường bê tông đi vào thôn T1, xã T, huyện P, thì phát hiện thấy Nguyễn Thế A, Trần Văn Ph, Phan D và Hoàng Kim L đi 02 xe máy không có gương chiếu hậu, tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm, nên ra hiệu lệnh yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính, yêu cầu xuất trình giấy tờ xe máy, giấy phép lái xe, giấy tờ tùy thân. Các đối tượng đều không chấp hành mà có lời nói tục tĩu xúc phạm, lăng mạ, chửi tục, thách thức. Đồng chí Đỗ Văn T1 và đồng chí Bùi Anh T đã giải thích và yêu cầu các đối tượng dắt xe máy vi phạm gọn vào lề đường để tránh ùn tắc giao thông nhưng các đối tượng vẫn không chấp hành, nên đồng chí T dắt cả 02 chiếc xe máy vào lề đường để xử lý theo quy định. Các đối tượng không chấp hành mà còn to tiếng chửi bới xúc phạm, thách thức tổ công tác, vì vậy đồng chí T lấy điện thoại di động quay ghi hình lại diễn biến sự việc. Lúc đó, Hoàng Kim L chỉ tay về phía đồng chí T và chửi bới tục tĩu, thách thức; Trần Văn Ph đi lại áp sát gần đồng chí T dùng tay gạt điện thoại, không cho đồng chí T quay video; Phan D lao vào dùng tay đẩy vào ngực, dùng chân đạp vào đùi đồng chí T; Hoàng Kim L chỉ tay về phía 02 chiếc xe máy liên quan đang dựng ở lề đường và bảo Ph và D dắt xe máy đi, thì đồng chí T và đồng chí T1 yêu cầu các đối tượng để xe lại và chấp hành việc kiểm tra hành chính. Các đối tượng không chấp hành, Ph dắt xe máy Sirius, biển kiểm soát 29L1- 001.10, D dắt xe máy Airblade, biển kiểm soát 29F1-016.48 nổ máy định đi, nên đồng chí T đứng ra phía trước đầu xe của Ph ngăn cản không cho các đối tượng lấy xe đi. L và Thế A tiếp tục chửi bới thách thách, Ph nổ máy vào số điều khiển “bốc đầu” xe máy đâm thẳng vào đồng chí T, bánh trước xe máy va vào chân trái làm đồng chí T bị đau phải lùi lại phía sau. Cùng lúc đó, L nhặt 01 đoạn gậy gỗ hình vuông, kích thước (6x6)cm, dài 60cm; Thế A nhặt 01 nửa viên gạch đặc, kích thước (10x10x5)cm ở ven đường, đe dọa, uy hiếp tổ công tác đang thực hiện công vụ, rồi Thế A ngồi lên xe máy do Ph điều khiển, L ngồi lên xe máy do D điều khiển đi khỏi hiện trường về hướng xã H.

Hành vi trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự.

Do vậy, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của nhà nước, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Hành vi chống người thi hành công vụ của các bị cáo diễn ra trong thời điểm dịch Covid- 19 đang diễn biến phức tạp, nhân dân cả nước đang ra sức nghiêm ngặt thực hiện các biện pháp phòng chống dịch nhưng các bị cáo đã đi ngược lại chính sách pháp luật của Nhà nước. Bản thân các bị cáo đều có những lời nói, hành vi ngông cuồng, thái độ coi thường, bất chấp pháp luật, coi thường, xúc phạm người thực hiện công vụ nên cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc để răn đe bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không có;

Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015

[3] Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: Các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có bàn bạc, phân công nên chỉ là đồng phạm giản đơn, tất cả các bị cáo đều thực hiện hành vi với vai trò tích cực. Tuy nhiên, bị cáo Thế A có nhân thân xấu, đã bị khởi tố, truy tố về hành vi Gây rối trật tự công cộng, đang chờ xét xử nhưng vẫn tiếp tục có hành vi coi thường pháp luật nên phải chịu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt cao hơn các bị cáo khác. Bị cáo Ph có hành vi “bốc đầu” xe lao vào đồng chí T thể hiện thái độ hung hãn hơn bị cáo D nên phải chiụ trách nhiệm hình sự với mức hình phạt cao hơn.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Đồng chí Bùi Anh T không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Đi với 01 (một) đoạn gậy gỗ hình vuông, kích thước (6x6)cm, dài 60cm, một đầu vuông, một đầu vát và 01 (một) nửa viên gạch đặc, kích thước (10x10x5)cm là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. [6] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều đảm bảo đúng pháp luật.

[7] Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử:

- Phạt bị cáo Nguyễn Thế A 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/4/2020.

- Phạt bị cáo Trần Văn Ph 22 (Hai mươi hai) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/4/2020.

- Phạt bị cáo Phan D (tức Th) 20 (Hai mươi) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/4/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy đối với 01 (một) đoạn gậy gỗ hình vuông, kích thước (6x6)cm, dài 60cm, một đầu vuông, một đầu vát và 01(một) nửa viên gạch đặc, kích thước (10x10x5)cm.

Vật chứng hiện đang được Chi cục thi hành án dân sự huyện Phúc Thọ quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/7/2020 giữa Công an huyện Phúc Thọ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phúc Thọ.

Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:52/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về