Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 26/06/2020 về việc yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 52/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/06/2020 VỀ VIỆC YÊU CẦU LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 75/2020/TLST-HNGĐ ngày 18/02/2020 về việc: “Yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2020/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 39/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kim Đ, sinh năm: 1994 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Quốc lộ C, thị trấn D, huyện E, thành phố Cần Thơ .

Bị đơn: Ông Nguyễn Chí Đ, sinh năm: 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã C, huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR – VT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/02/2020, bản khai và biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn bà Lê Thị Kim Đ trình bày:

* Về hôn nhân: Bà Lê Thị Kim Đ và ông Nguyễn Chí Đ chung sống với nhau từ năm 2014 nhưng đến năm 2015 mới đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn D, huyện E, thành phố Cần Thơ. Hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện, không ai mai mối hay ép buộc.

Trước khi kết hôn bà Đ và ông Đ có thời gian tìm hiểu nhau và được hai bên gia đình đồng ý tổ chức lễ cưới.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc mặc dù trong cuộc sống vợ chồng đôi khi cũng phát sinh mâu thuẫn nhưng vợ chồng tự dàn xếp được. Đến đầu năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng và kéo dài cho đến ngày hôm nay.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống từ đó vợ chồng thường xuyên cải vã nhau. Giữa hai vợ chồng không còn tiếng nói chung, ngoài ra ông Đ không lo làm ăn mà thường xuyên đá gà và cá độ nên gây nợ nần. Bà Đđã khuyên ông Đ nhiều lần nhưng không Đ.

Từ năm 2019 cho đến nay, bà Đ và ông Đ sống ly thân không còn quan hệ gì về mọi mặt, từ kinh tế cho đến chuyện tình cảm. Bà Đ đã chuyển về nhà ba mẹ ruột của bà Đ ở thị trấn D, huyện E, thành phố Cần Thơ sinh sống, ông Đ vẫn sống tại xã Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

Nay bà Đ xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà Đ và ông Đ không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Đ.

- Về con chung: Bà Đ và ông Đ có 01 con chung là Nguyễn Chí H, sinh ngày:

05/10/2015. Con chung đang ở với bà Đ, bà Đ có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con - Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Đ theo quy định để ông Đ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhưng ông Đ đều vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tuân thủ theo đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.

- Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình, cụ thể là vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa nguyên đơn vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Thẩm phán đưa vụ án ra xét xử đúng thời hạn quy định.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà Đ được ly hôn ông Đ. Về con chung, xét con chung đang ở với bà Đ nên tiếp tục giao cho bà Đ nuôi dưỡng. Về phần tài sản chung và nợ chung: bà Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ tranh chấp: Bà Lê Thị Kim Đ yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Chí Đ và yêu cầu giải quyết về con chung; ông Đ có nơi cư trú tại xã Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu nên xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bà Đ chấp hành đúng các quy định của pháp luật, tại phiên tòa bà Đ vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt theo quy định; ông Đ vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do vì vậy,Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Đ và ông Đ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn 42/2015, quyển số 01/2015 ngày 04/5/2015 của UBND thị trấn D, huyện E, thành phố Cần Thơ xác định, hôn nhân của bà Đ và ông Đ là hợp pháp. Sau khi kết hôn, bà Đ và ông Đ chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng và kéo dài cho đến ngày hôm nay.

Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà Đ trình bày là do vợ chồng bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Giữa hai vợ chồng không còn tiếng nói chung nên cuộc sống không còn hạnh phúc như trước. Bà Đ đã cố gắng khắc phục mâu thuẫn nhưng không Đ, bà Đ và ông Đ sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay không còn quan hệ gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế.

[4]. Qua xác minh cho thấy, trong thời gian bà Đ và ông Đ chung sống tại địa phương thì bà Đ và ông Đ có xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau.

Nguyên nhân là mâu thuẫn như thế nào địa phương không rõ, thỉnh thoảng thì vợ chồng cãi nhau. Hiện nay, bà Đ không có ở địa phương, đi đâu làm gì thì địa phương không biết, ông Đ thì vẫn ở tại địa phương. Nay bà Đ yêu cầu ly hôn thì đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết, địa phương không có ý kiến.

[5] Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Đ và ông Đ đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt nên áp dụng Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Đ đối với ông Đ.

[6] Về con chung: Bà Lê Thị Kim Đ và ông Nguyễn Chí Đ có 01 con chung là Nguyễn Chí H, sinh ngày: 05/10/2015. Con chung đang ở với bà Đ, bà Đ có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung. Xét yêu cầu của bà Đ thì thấy, bà Đ hiện có công việc và thu nhập đủ đảm bảo cho việc nuôi dạy và chăm sóc con chung nên giao con chung cho bà Đ nuôi dưỡng là phù hợp, đảm bảo sự phát triển toàn diện của con theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về yêu cầu cấp dưỡng, bà Đ không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Riêng đối với ông Đ, từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử, ông Đ không đến tòa và không thể hiện ý kiến của mình nên hội đồng xét xử căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án, nếu sau này ông Đ có yêu cầu thay đổi thì làm đơn khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Bà Đ phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57 và các Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Lê Thị Kim Đ, bà Đ được ly hôn với ông Nguyễn Chí Đ.

2. Về con chung: Bà Lê Thị Kim Đ và ông Nguyễn Chí Đ có 01 con chung là Nguyễn Chí H, sinh ngày: 05/10/2015. Con chung đang ở cùng với bà Đ, bà Đ được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Bà Đ không yêu cầu ông Đức cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời ông Đức không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên; người không trực tiếp nuôi dưỡng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không Đ cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc chăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

Vì quyền lợi của con chung, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị Kim Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Lê Thị Kim Đ phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ bà Đ đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001160 ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc. Bà Đ đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, ông Đ không phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 26/06/2020 về việc yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:52/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về